Top 5 Mẫu Phân tích bài thơ Câu Cá Mùa Thu giúp bạn đạt điệm cao

Bảng xếp hạng xin gửi tới các bạn đọc những tuyển chọn những bài Phân tích tác phẩm văn mẫu Câu cá mùa thu học sinh giỏi. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp nâng cao, chi tiết từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh chuyên văn. Mời các bạn cùng tham khảo ở bài viết ngay dưới đây nhé!

Giới thiệu về tác phẩm câu cá mùa thu

1. Tác giả

Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Khuyến chi tiết nhất

– Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) hiệu là Quế Sơn, lúc nhỏ tên là Nguyễn Thắng.

– Sinh ra tại quê ngoại – xã Hoàng Xá (nay là xã Yên Trung), huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

– Lớn lên và sống chủ yếu ở quê nội – làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.

– Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo.

– Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.

– Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.Các tác phẩm gồm có Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

– Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bè bạn; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.

2. Tác phẩm

a. Xuất xứ: Câu cá mùa thu nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm: Thu điếuThu ẩmThu vịnh.

b. Hoàn cảnh sáng tác: Được viết trong thời gian khi Nguyễn Khuyến về ở ẩn tại quê nhà.

c. Thể loại: Thất ngôn bát cú.

d. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm, miêu tả.

e. Bố cục:

– Cách chia 1:

+ Hai câu đề: Quang cảnh mùa thu.

+ Hai câu thực: Những chuyển động nhẹ nhàng của mùa thu.

+ Hai câu luận: Bầu trời và không gian làng quê..

+ Hai câu kết: Tâm trạng của nhà thơ.

– Cách chia 2:

+ Phần 1 (6 câu thơ đầu): Cảnh mùa thu ở vùng quê Bắc bộ.

+ Phần 2 (2 câu thơ cuối): Tình thu.

f. Giá trị nội dung: Bài thơ thể hiện sự cảm nhận và nghệ thuật gợi tả tinh tế của Nguyễn Khuyến về cảnh sắc mùa thu đồng bằng Bắc Bộ, đồng thời cho thấy tình yêu thiên nhiên, đất nước, tâm trạng thời thế và tài thơ Nôm của tác giả.

g. Giá trị nghệ thuật

– Cách gieo vần đặc biệt: Vần “eo” (tử vận) khó làm, được tác giả sử dụng một cách thần tình, độc đáo, góp phần diễn tả một không gian vắng lặng, thu nhỏ dần, khép kín, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc của nhà thơ.

– Lấy động tả tĩnh – nghệ thuật thơ cổ phương Đông.

– Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.

Cách lập dàn ý phân tích bài thơ Câu cá mùa thu

Mở bài

– Đôi nét về tác giả Nguyễn Khuyến: một tác giả chịu tác động đậm nét tư tưởng Nho giáo, sáng tác của ông thường về đạo đức con người, người quân tử. Sau lúc thấy thực tại rối ren, ông ở ẩn sáng tác các tác phẩm trình bày sự hòa hợp với tự nhiên thanh tịnh

– Bài thơ Câu cá mùa thu: Là một bài thơ trong chùm thơ thu ba bài được sáng tác trong thời kì tác giả ở ẩn

Thân bài

Hai câu đề

– Mùa thu gợi ra với hai hình ảnh vừa đối lập vừa hợp lý hài hoà “ao thu”, “chiếc thuyền câu” nhỏ tẻo teo;

+ Màu sắc “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu

+ Hình ảnh: Chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo ⇒ rất nhỏ

+ Cách gieo vần “eo”: giàu sức biểu lộ

– Cũng từ ao thu đó tác giả nhìn ra mặt ao và ko gian quanh ao ⇒ đặc trưng của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

⇒ bộc lộ rung cảm của tâm hồn thi sĩ trước cảnh đẹp mùa thu và của tiết trời mùa thu, gợi cảm giác yên tĩnh lạ thường

Hai câu thực

– Tiếp tục nét vẽ về mùa thu giàu hình ảnh:

+ Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và mát rượi, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh

+ Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam

– Sự chuyển động:

+ hơi gợn tí ⇒ chuyển động rất nhẹ ⇒sự chuyên chú quan sát của tác giả

+ “khẽ đưa vèo” ⇒ chuyển động rất nhẹ rất khẽ ⇒ Sự cảm nhận thâm thúy và tinh tế

⇒ Nét rực rỡ rất riêng của mùa thu làng quê được gợi lên từ những hình ảnh bình dị, đó chính là “cái hồn dân dã”

Hai câu luận

– Cảnh thu đẹp một vẻ bình dị nhưng yên ắng và đượm buồn:

+ Ko gian của bức tranh thu được mở rộng cả về chiều cao và chiều sâu

+Tầng mây lửng lơ: gợi cảm giác thanh nhẹ, thân thuộc thân thiện, yên bình, yên ắng.

+ Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp tục sử dụng, nhưng ko phải là màu xanh dịu nhẹ, mát rượi nhưng xanh thuần một màu trên diện rộng ⇒ đặc trưng của mùa thu.

+ Hình ảnh làng quê được gợi lên với “ngõ trúc lòng vòng”: hình ảnh thân thuộc

+ Khách vắng teo: Gieo vần “eo” gợi sự thanh vắng, yên ả, yên ắng

⇒ Ko gian của mùa thu làng cảnh Việt Nam được mở rộng lên cao rồi lại hướng trực tiếp vào chiều sâu, ko gian yên ắng và thanh vắng

Hai cấu kết

– Xuất hiện hình ảnh con người câu cá trong ko gian thu yên ắng với tư thế “Tựa gối buông cần”:

+ “ Buông”: Thả ra (thả lỏng) đi câu để tiêu khiển, ngắm cảnh mùa thu

+ “Lâu chẳng được” : Ko câu được cá

⇒ Đằng sau đó là tư thế thư thái thư thả ngắm cảnh thu, đem câu cá như một thú vui làm thư thái tâm hồn ⇒ sự hòa hợp với tự nhiên của con người

– Toàn bài thơ mang vẻ yên ắng tới câu cuối mới xuất hiện tiếng động:

+ Tiếng cá “đớp động dưới chân bèo” → sự chuyên chú quan sát của thi sĩ trong ko gian yên tĩnh của mùa thu, nghệ thuật “lấy động tả tĩnh”

⇒ Tiếng động rất khẽ, rất nhẹ trong ko gian rộng lớn càng làm tăng vẻ tĩnh vắng , “cái tĩnh tạo nên từ một cái động rất nhỏ”

⇒ Nói câu cá nhưng thực ra ko phải bàn chuyện câu cá, sự yên ắng của cảnh vật cho cảm nhận về nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn thi sĩ, đó là tâm tình đầy đau buồn trước tình cảnh tổ quốc đầy đau thương

Nghệ thuật

– Văn pháp thuỷ mặc (dùng đường nét chấm phá) Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu hoạ của bức tranh phong cảnh

– Vận dụng tài tình nghệ thuật đối.

– Nghệ thuật lấy động tả tĩnh được sử dụng thành công

– Cách gieo vẫn “eo” và sử dụng từ láy tài tình

Kết bài

– Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của bài thơ

– Bài thơ mang đến cho độc giả những cảm nhận sâu lắng về một tâm hồn yêu nước thầm kín nhưng thiết tha

Sơ đồ tư duy bài Câu cá mùa thu - Ngữ Văn 11 - Phòng GD&DT Sa Thầy

Xem thêm bài viết: Mẫu Viết một bài văn khoảng 400 chữ kể lại một trải nghiệm của bản thân

Mẫu Phân tích câu cá mùa thu mẫu 1

Nguyễn Khuyến được biết tới nhiều nhất với chùm thơ thu gồm.ba bài thơ bằng tiếng Nôm một trong số đó chính là “ Câu cá mùa thu” . Xuyên suốt bài thơ là một nét thu đẹp yên ắng nơi làng  quê thời xa xưa, biểu lộ một nét cô đôn trong tâm hồn một nhà Nho yêu quê hương yêu tổ quốc thời bấy giờ. Sau khoảng thời kì ông từ quan về quê nhà, một loạt nhưxng tác phẩm ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”.

Mở đầu bài thơ là hai câu thơ

“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo”

Chỉ cần đọc hai câu thơ ta có thể tưởng tượng ra cảnh sắc mùa thu, một ko gian nghệ thuật đang bao trùm xung quanh chúng ta. Nước trong veo của ao có thể giúp ta nhìn xuyên thấu được qua lòng ao, một ko khí lạnh lẽo đang lan tỏa ra khắp ko gian. Ko còn cái se lạnh đầu thu nữa nhưng mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo tương tự. Ko biết từ bao giờ nhưng mà trên lòng ao đã xuất hiện một chiếc thuyền câu giữa ko gian rộng lớn rộng lớn dường như sự độc thân của chiếc thuyền đang lan tỏa rộng ra khắp ko gian. Nhỏ tẻo teo tức là rất nhỏ nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự tun hút của cảnh vật (trong veo – nhỏ tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm. Tiếp đó cùng bước vào toàn cầu nghệ thuật của hai câu thơ tiếp theo:

“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí

Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”

Hai câu thơ đang gợi tả cảnh vật xung quanh theo ko gian hai chiều có thể nhìn bằng mắt là sóng đang gợn và tai có thể nghe thấy tiếng lá được gió đưa vèo. Vô cùng mộc mạc giản gị nhưng cũng có thể  cho người ta thấy được sự hài hòa của màu sắc được tác giả mô tả có sóng biếc có lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Ngoài ra không những thế tác giả còn liên kết sử dụng phép đối một cách vô cùng tài tình tạo điều kiện cho nét thu được nhấn mạnh giúp người đọc có thể tưởng tượng ra ko gian nhưng mà tác giả đang mô tả như đang ở trước mặt mình một cách vô cùng chân thực và rõ nét. Phải xác nhận một điều là ngòi bút của tác giả Nguyễn Khuyến vô cùng tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự nhưng mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Chưa ngừng lại ở đấy Nguyễn Khuyến còn giúp chúng ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu thơ tiếp theo:

“ Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt

Ngõ trúc lòng vòng khách vắng teo”

Một bầu trời xanh ngắt và thăm thẳm rộng lớn và rộng lớn đang bao trùm lấy ko gian nơi đây. Những áng mây  đang lẳn lặng trôi trên bầu trời rộng lớn như đang nhấn mạnh sự rộng lớn của ko gian nơi đây. Thoáng đãng, êm đềm, yên ắng và nhẹ nhõm. Ko một bóng người lại qua trên tuyến đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc lòng vòng khách vắng teo. Vắng teo tức là vô cùng vắng lặng ko một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự độc thân, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:

Dặm thế, ngõ đâu từng trúc đó
Thuyền người nào khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)

Có nhẽ một trong những sự vật thân thuộc với hình ảnh làng quê đó là ngõ trúc và tầng mây. Hai sự vật này đã từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật. Có vẻ như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể mô tả một cách vô cùng chân thực như  vậy được. Tới hai cấu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một nhân vật khác:

“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Thu điếu tức là mùa thu câu cá. Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Hình ảnh người câu cá tới tận phần cuối cùng mới thấy xuất hiện với một tư thế tựa gối ôm cần vô cùng nhàn nhã. Trong tâm thế đợi chờ lâu chẳng được đột nhiên tác giả đột nhiên chợt tỉmh vì nghe thấy tiếng cá đớp động dưới chân bèo. Sự kì vọng đã từ rất láu mãi tới hiện thời đã có một tí kết quả. Người câu cá như đang ko quan tâm tới mọi thứ tạp niệm chỉ tập trung hòa mình vào trong ko gian hiện thời, trong cảnh sắc vô cùng tuyệt đẹp, và trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh đó hòa quyện với một tiếng trên ko ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng độc thân và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh sạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.

Thu điếu là một trong những tác phẩm quá tuyệt vời của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu đã từng bộc bạch rằng trong Thu điếu có một nét diệu xanh nhưng mà người tả ko tài nào hiểu hết vẻ đẹp, vẻ tinh túy của nó được.  Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo… và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Tuy nhiên ẩn sâu trong cái yên ắng này lại có một nỗ buồn man mác của tác giả. Một tâm thế nhàn hạ và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo – teo – vèo – teo – bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa tương xứng, điệu thơ nhẹ nhõm bâng khuâng… cho thấy một văn pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên – đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu xứng đáng là một tác phẩm tả cảnh ngụ tình xuất sắc trong chương trình Ngữ văn lớp 11.

phân tích thương vợ

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu) Mẫu 2

Mùa thu luôn là một đề tài muôn thủa của các thi sĩ. Trong nền văn học Việt Nam từ thơ Trung đại cho đến thơ Hiện đại, từ thể thơ cổ cho đến thơ tự do, đã có rất nhiều tác phẩm hay viết về mùa thu, nhưng nhắc đến đề tài mùa thu, ta vẫn không thể không nhắc đến nhà thơ Nguyễn Khuyến. Với ông, dường như mùa thu là nguồn cảm hứng đặc biệt, chẳng vậy mà ông có cả một chùm thơ hay viết về mùa thu, trong đó nổi bật nhất là bài “Thu Điếu”, hay còn gọi “Câu cá mùa thu”.

Chùm thơ thu của nhà thơ Nguyễn Khuyến gồm có ba bài thơ: “Thu vịnh”, “Thu ẩm” và “Thu điếu”. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp, cũng dạt dào tình quê, cảnh quê. Tuy nhiên, như Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu từng khẳng định bài thơ “thu điếu” là “bài thơ điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Đây quả là lời nhận xét vừa chính xác, vừa tinh tế!

“Thu điếu” được viết bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, giàu tính hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu, khí thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút Nguyễn Khuyến qua bốn câu thơ đầu:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

Một chếc thuyền câu bé tẻo teo

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo.”

Với “Thu điếu” cảnh thu được đón nhận theo hướng mở rộng về không gian từ gần ra xa, từ thấp lên cao, rồi sau đó lại từ cao xa quay trở lại gần. Cụ thể là từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao rồi sau đó nhìn lên bầu trời, nhìn ra ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với chiếc thuyền câu. Từ một khung ao nhỏ bé, không gian mùa thu được mở rộng ra nhiều hướng thật sinh động, gần gũi đến chân thực, nhưng vẫn không mất đi nét đẹp tinh tế.

Ở câu thơ đầu, không khí của mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật. Nhà thơ không bắt đầu bằng việc tả cảnh sắc mùa thu qua màu sắc như thông thường, mà ông vẽ những nét đầu cho bức tranh thu bằng những nét chấm phá mơ hồ từ không khí thu rất dịu nhẹ, pha chút lạnh se se:

“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”

Nước ao “trong veo” tỏa hơi thu “lạnh lẽo”. Sương khói mùa thu như bao trùm lên toàn bộ cảnh vật xung quanh. Nước ao thu trong vắt, khí thu lành lạnh lại càng tô điểm, khiến nước thu đã trong lại càng trong. Có cảm giác như chúng ta có thể nhìn thấy vài chú cá chậm rãi bơi lưng chừng trên những đám rêu xanh mướt dưới đáy ao vậy! Nước ao trong nhờ khí lạnh, khí lại càng thêm lạnh khi kết hợp với sự trong đến lặng của ao thu. Qủa là sự kết hợp tuyệt vời!

Trên bề mặt của nước ao thu trong như ngọc ấy có thấp thoáng hình ảnh một chiếc thuyền câu bé nhỏ:

“Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”

Chỉ có duy nhất một chiếc thuyền, không những bé mà lại còn là “bé tẻo teo”. Cái ao và chiếc thuyền chính là hình ảnh trung tâm của bài thơ, nhưng cũng chính là hình ảnh bình dị, dân dã nhất nơi thôn quê. Tác giả không hề đặc tả độ rộng của ao thu, thậm chí khi đọc câu thơ đầu, người đọc có thể liên tưởng rằng ao thu ở đây rất nhỏ, vì theo như nhà thơ từng nhắc tới, vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam quê nhà có cơ man nào là ao, vì nhiều ao nên ao nhỏ, ao nhỏ thì theo đó mà thuyền câu cũng “bé tẻo teo”. Nhưng đọc câu thơ thứ hai, đột nhiên ta có cảm giác ao thu như rộng hơn lên, chính cái nhỏ bé đến “tẻo teo” của thuyền câu lại càng làm cho ao thu nhỏ bé trở nên mênh mông biết mấy. Hai câu thơ đầu với các từ ngữ “lạnh lẽo”, “trong veo”, “bé tẻo teo” khắc họa đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, của nước mùa thu một cách tinh tế. Cách gieo vần “eo” trong miêu tả không chỉ làm tăng mức độ thanh lặng, quạnh vắng của cảnh vật, mà còn tạo nên nhịp thơ âm vang như thể tiếng thu, như thể hồn thu vọng về.

Nếu như hai câu thơ đầu là những nét chấm phá phác họa bức tranh mùa thu thì đến hai câu thơ sau, nhà thơ tiếp tục dùng ngòi bút tài ba, vẽ lên một bức tranh thủy mặc đẹp đến thanh bình:

“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

Lá vàng theo gió khẽ đưa vèo”

Màu “biếc” của sóng nước hòa hợp với màu “vàng” của lá đã khắc lên bức tranh quê đơn sơ đấy mà không kém phần lộng lẫy.  Nghệ thuật đối trong phần thực quả thực rất điêu luyện, “lá vàng” đối với “sóng biếc”; tốc độ “vèo” của lá bay tướng ứng với mức độ “tí” của sóng gợn. Ở hai câu đề, chúng ta đã thấy được độ trong của nước, nhưng đến đây, ta nhận ra nước thu không những trong mà còn rất xanh, xanh trong đến độ “biếc” như thể ánh lên màu lấp lánh như ngọc vậy!. Gió thu trong thơ Nguyễn Khuyến cũng rất độc đáo, không phải nhè nhẹ thổi theo khí se lạnh mà lại đủ mạnh để cuốn lá “đưa vèo”. Tưởng chừng như nghịch lý nhưng lại rất hợp lý với cảnh sắc đang được miêu tả ở phần trên.

Hai câu luận tiếp tục mở rộng không gian mùa thu qua miêu tả của nhà thơ. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời nhuộm màu “xanh ngắt” với những tầng mây “lơ lửng” trôi theo chiều gió nhẹ:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”

Dường như trời thu trong thơ của Nguyễn Khuyến luôn có màu xanh, mà còn là một màu “xanh ngắt”:

“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao” trong “Thu Vịnh”

 hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” trong “Thu ẩm”.

Màu “xanh ngắt” là không chỉ có sắc xanh mà còn có cả chiều sâu, đối với trời thu, xanh ngắt là không chỉ xanh mà còn trong, tạo cảm giác bầu trời trở nên cao và rộng. Trời thu xanh ngắt, bao la một màu thăm thẳm gợi ra cái sâu, cái lặng của không gian,cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá trên chiếc thuyền “ bé tẻo teo”. Thế rồi ông lão ấy lơ đãng nhìn ra bốn phía làng quê, đột nhiên nhận ra không chỉ bầu trời trên cao hay mặt nước bên dưới, thậm chí ngay cả không gian xung quanh cũng trở nên vắng lặng, vắng lặng đến yên bình, thậm chí đến cô đơn. Cô đơn khi thấy xung quanh không một bóng người, xóm thôn vắng lặng, con đường nhỏ phía trước chỉ có mấy khóm trúc khẽ đưa trong gió nhẹ, ngõ vắng quanh co lại càng thêm im lìm. Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng tĩnh lặng của mùa thu, tất cả cảnh vật đều tạo nên cảm giác bâng khuâng, man mác nhưng không vì vậy mà trở nên xa lạ, ngược lại rất thanh bình, gần gũi đúng chất làng quê Việt Nam.

Khung cảnh ấy càng trở nên thôn dã, giản dị khi xuất hiện rõ nét hình ảnh cả một người ngồi trên thuyền câu cá ở hai câu kết:

“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.”

Tư thế “tựa gối ôm cần” xuất hiện trong thơ Nguyễn Khuyến là một hình ảnh đẹp, đẹp đến bình dị. Phải chăng đó là tâm thế nhàn của một thi sĩ đã thoát khỏi vòng danh lợi.? Hình ảnh con người xuất hiện trực tiếp với tư thế bó gối càng tô điểm cho bức tranh thu thêm sinh động.Tuy nhiên,  nhà thơ ngồi câu cá đấy mà lại chẳng chú tâm đến việc câu , chẳng vậy mà lại bị giật mình trước tiếng “cá đớp động dưới chân bèo”. Phải chăng nhà thơ còn mải thả hồn thi sĩ nhìn ngắm trời xanh, còn ngắm làn nước hơi gợn tí, đưa mắt nhìn lá vàng trước gió khẽ đưa vèo, rồi lại bất chợt vu vơ buồn trước ngõ trúc vặng lạnh quanh co nên mới bị giật mình trước thanh âm nhỏ bé ấy? Không gian hẳn phải yên tĩnh lắm, tâm hồn hẳn phải trong trẻo, lắng đọng lắm mới có thể nghe, có thể cảm thứ âm thanh như vậy! Tuy nhiên, dù có xuất hiện âm thanh nhưng không gian mùa thu vẫn hoàn toàn yên tĩnh, vì quá tĩnh nên mới nghe thấy thứ âm thanh mỏng và nhẹ như vậy, nghe được cả tiếng lá rơi, tiếng cá động mà vẫn thấy tĩnh, đó mới chính là cái tài trong nghệ thuật lấy động tả tĩnh của hồn thơ quê Nguyễn Khuyến.

Đến cả sự bất ngờ trước âm thanh cá đớp động chân bèo của Nguyễn Khuyến cũng rất lạ, rất hay. Hay ở chỗ nhà thơ sử dụng từ “cá đâu”. “Cá đâu” là cách hỏi vừa tạo nên sự mơ hồ trong không gian vừa gợi ra sự ngỡ ngàng của lòng người. Nhà thơ dường như nhất thời mất đi cảm nhận về không gian thực tại mà chìm đắm trong không gian suy tưởng nên không thể lập tức xác định được hướng gây ra tiếng động mặc dù đang ở trong một chiếc ao rất nhỏ. Vì sao ư? Vì nhà thơ câu cá mà không phải để bắt cá! Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự tư thái trong tâm hồn, để tĩnh tâm, để thu hút hết hương sắc mùa thu vào trái tim nhạy cảm của người thi sĩ. Vậy mới nói bài thơ không phải kể chuyện câu cá vào mùa thu mà chính là mượn việc câu cá để tả trời thu, để khen ngợi trời thu.

Xem thêm:  Phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến – Văn mẫu lớp 11

Trước Nguyễn Khuyến có rất nhiều thi sĩ viết về mùa thu,sau Nguyễn Khuyến thơ hay viết về mùa thu cũng không phải là không có, tuy nhiên, “Thu Điếu” vẫn luôn mang trong mình một sắc thu riêng, không lẫn lộn. Cảnh thu trong bài thơ là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và buồn, không gian vắng lặng nhưng không tạo cảm giác cô độc, sầu não. Ngược lại, còn nhờ đó mà mở ra một bức tranh sống động tuyệt đẹp về làng quê cổ Việt Nam, rất gần gũi, rất thanh bình.

Phân tích bức tranh mùa thu qua bài Câu cá mùa thu (dàn ý - 5 mẫu) | Trường Cao đẳng Tài nguyên và Môi trường miền Trung

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu mẫu 3

Nguyễn Khuyến là người có cốt cách thanh cao và giàu lòng yêu nước, ông một lòng ko hợp tác với quân địch. Ông được mệnh danh là “thi sĩ của dân tình, làng cảnh Việt Nam”. Ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm thơ hay và đặc trưng là chùm ba bài thơ thu tiêu biểu cho làng quê, phong cảnh Việt Nam. Trong đó nổi trội hơn cả là bài Câu cá mùa thu.

Nếu như ở bài Thu vịnh cảnh thu được đón nhận từ cao xa rồi mới tới gần thì bài Câu cá mùa thu quang cảnh tự nhiên mùa thu lại được đón nhận ở một chiều kích khác: từ gần rồi tiến ra cao xa và từ cao xa trở về gần. Quang cảnh được mở ra với nhiều chiều hướng vô cùng sinh động.

Cảnh thu được mở ra với hình ảnh ko gian hết sức trong trẻo:

    Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

    Một chiếc thuyền câu nhỏ tẻo teo

    Ko khí mùa thu được gợi nên từ sự dịu nhẹ, sơ khai nhất của cảnh vật với làn nước trong veo, ko một gợn đục. Mùa hè đã đi qua, những cơn mưa lớn với dòng nước đỏ đục đã ko còn thay vào đó là cái thanh vắng, trong trẻo của làn nước, của cảnh vật. Trong ko gian nhỏ hẹp đó là hình ảnh của chiếc thuyền câu nhưng nó ko hề lọt thỏm giữa ko gian tự nhiên nhưng lại rất hài hòa, tương hợp. Tác giả vẽ ra quang cảnh tưởng như đối lập ao thu – thuyền câu, nhưng kì thực chúng lại hòa quyện với nhau tới kì lạ. Bởi vật tác giả chọn là ao thu chứ ko phải hồ thu – gợi cảm giác rộng lớn, choáng ngợp. Ao thu đó lúc có thuyền câu kế bên trở thành hài hòa, tương hợp và đậm chất quang cảnh làng quê Bắc Bộ Việt Nam. Hai câu thơ đầu gieo vần eo nhưng ko hề gợi lên cảm giác hạn hẹp, nhỏ nhỏ, tù túng nhưng trái lại gợi nên cái nhỏ nhắn, thanh thoát của cảnh vật.

Bức tranh thu tiếp tục được Nguyễn Khuyến phác họa ở cặp câu thơ tiếp theo:

    Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

    Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo

    Những đường nét của quang cảnh cũng hết sức mảnh mai với sóng hơi gợn tí, lá khẽ đưa vèo, dường như mọi chuyển động đều vô cùng nhẹ nhõm, thanh thoát. Vận dụng thủ pháp lấy động tả tĩnh Nguyễn Khuyến đã làm nổi trội sự yên ắng tuyệt đối của ko gian, của cảnh vật. Phải là ko gian vô cùng yên tĩnh thì thi nhân mới có thể cảm nhận tiếng động thật khẽ, thật êm của cảnh vật, dù là sóng có gợn hay chiếc lá khẽ đưa, bằng giác quan tinh tế, nhạy cảm Nguyễn Khuyến đã nắm trọn từng khoảnh khắc của tự nhiên. Sắc vàng nếu như ở những bài thơ khác chính là sắc màu chủ đạo, là điểm nhấn để gợi nhắc mùa thu thì trong câu thơ của Nguyễn Khuyến sắc vàng đó cũng như bao sắc màu khác trong bức tranh: xanh của trời, trong veo của nước,… nó chỉ góp phần tạo nên đường nét hài hòa cho bức tranh, tuyệt nhiên ko gợi cảm giác buồn chán của tâm trạng, hay héo úa của cảnh vật. Ko chỉ vậy, cái hồn dân dã, vẻ đẹp mùa thu của làng quê Bắc Bộ còn đường gợi lên từ những ngõ trúc lòng vòng:

    Tầng mây lửng lơ trời xanh ngắt

    Ngõ trúc lòng vòng khách vắng teo

    Ko gian được mở rộng ở chiều cao, tác giả hướng ánh mắt lên bầu trời để cảm thu được cái “xanh ngắt” của bầu trời, và rất tự nhiên thu tầm nhìn về với ngõ trúc qanh co. Ko gian mùa thu vô cùng yên ắng. Mọi chuyển động đều quá nhẹ nhõm, êm ái ko đủ để gợi nên âm thanh, duy chỉ có tiếng động của tiếng cá đớp mồi: “Cá đâu khẽ động dưới chân bèo”. Nhưng cái động đó liên kết với từ “khẽ” lại chỉ càng nhấn mạnh, tô đậm hơn cái yên ắng, u tịch của cảnh vật. Với nghệ thuật lấy động tả tĩnh, Nguyễn Khuyến đã cho thấy cái thanh vắng tuyệt đối của làng quê Việt Nam trong cảnh thu yên bình, dịu nhẹ.

Bài thơ có nhan đề là Câu cá mùa thu, nói về chuyện câu cá nhưng thực lại ko phải vậy. Mượn chuyện câu cá để cảm nhận hết trời thu, cảnh thu vào cõi lòng mình. Hẳn Nguyễn Khuyến phải có tâm hồn thanh vắng tới tuyệt đối mới có thể có nhận đầy đủ vẻ đẹp của mùa thu: trong veo, cái hơi gợn tí của nước, độ rơi khẽ khàng của lá. Đặc thù sự yên ắng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách thâm thúy từ tiếng động duy nhất trong bài thơ là tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự yên ắng trong cảnh vật gợi cho người đọc cảm nhận về sự lẻ loi, uẩn khúc trong tâm hồn thi sĩ. Trong bài các gam màu lạnh xuất hiện nhiều: trong veo, xanh ngắt,… dường như cái lạnh của thu thấm vào tâm hồn thi sĩ hay chính tâm hồn lẻ loi của tác giả lan tỏa sang cảnh vật. Đặt trong bối cảnh tổ quốc đầy biến thiên lúc bấy giờ, có thể thấy bài thơ trình bày tâm trạng đau buồn của Nguyễn Khuyến trước hiện tình tổ quốc đầy đau thương.

Bài thơ trình bày tài năng sử dụng tiếng nói bậc thầy của Nguyễn Khuyến. Tiếng Việt trong sáng, giản dị nhưng lại diễn tả được tất cả nhưng gì tinh tế, xinh xắn nhất của cảnh vật, diễn tả được tâm trạng và tấm lòng của thi sĩ. Gieo vần “eo” – tử vận tài tình góp phần mô tả ko gian nhỏ hẹp và tâm trạng đầy uẩn khúc của tác giả. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh gợi lên cái yên ắng tuyệt đối của tự nhiên.

Bài thơ Câu cá mùa thu với tiếng nói bậc thầy ko chỉ cho người đọc thấy tài năng của Nguyễn Khuyến trong việc dùng từ. Nhưng mà đằng sâu đó ta còn cảm thu được một tâm hồn gắn bó tha thiết với tự nhiên, tổ quốc, tấm lòng yêu nước thầm lặng nhưng ko kém phần sâu nặng.

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu mẫu 4

Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng chừng như cùng với sự kết thúc của chế độ xã hội phong kiến suy tàn lạc hậu, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kì lạ là trong sự suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm ấy lại xuất hiện một tài năng thơ ca vào loại xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu chấm cảm thán khẳng định tính cổ điển có sức lay động lòng người của văn học trung đại vào giai đoạn cuối cùng của thời kì văn học dài hàng chục thế kỉ này. Ông để lại cho quê hương, cho đất nước một di sản văn chương phong phú, đồ sộ. Nhưng nói đến nhà thơ Nguyễn Khuyến, người đọc mệnh danh ông là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, vì ông đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc biệt là chùm thơ thu của ông, trong đó có bài thơ Thu điếu:

    Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

    Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

    Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

    Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo

    Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

    Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

    Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được

    Cá đâu đớp động dưới chân bèo.

   Chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, mà nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.

Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Vỉệt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu:

    Ao thu lạnh lẽo nước trong veo

    Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo

   Nhà thơ hầu như không hứng thú gì với chuyện câu cá mà đắm say với không khí cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với tính chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó đúng là ao thu chứ không phải là môi trường thích hợp cho việc câu cá, bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu, một cảnh trong và tĩnh gần như tuyệt đối, nước trong veo, trời xanh ngắt, khách vắng teo, giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhậy và phải hết sức chăm chú thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhặt tinh vi chỉ làm tôn thêm cho cái trong và tĩnh của một khung cảnh đầy màu sắc:

    Sóng biếc theo làn hơi gợn tí

    Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.

   Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ vèo trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu:

    Vèo trông lá rụng đầy sân

   Đến câu luận:

    Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

    Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

   Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những từng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là Trời thu xanh ngắt mấy từng cao, Thu ẩm là Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt, và Thu điếu là Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt.

Xanh ngắt là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Xóm thôn vắng lặng, tĩnh mịch, con đường quanh co, heo hút, không một bóng người qua lại.

    Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

   Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước Ao thu lạnh lẽo đến chiếc thuyền câu bé tí teo, từ sóng biếc đến lá vàng, từ tầng mây lơ lửng đến ngõ trúc… đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam.

Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch ấy, tư thế ngồi của ông câu cá như cũng bất động trong thời gian:

    Tựa gối ôm cần lâu chẳng được

    Cá đâu đớp động dưới chân bèo

   Tựa gối ôm cần là tư thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc câu người, câu quạnh, câu lưỡi. Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nhà thơ có phẩm chất thanh cao.

Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh.

Bài thơ Câu cá mùa thu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, nét vẽ xa gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa vèo trong làn gió thu tiếng cá đớp động chân bèo – đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.

Thơ là sự cách điệu tâm hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

Phân Tích Bài Thơ Câu Cá Mùa Thu Hay Và đầy đủ Nhất | Lessonopoly

Phân tích bài thơ Câu cá mùa thu mẫu 5

“Thu điếu” cho thấy cái thần thái riêng của mùa thu ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ mà Nguyễn Khuyến đã thực sự nắm bắt và thể hiện được một cách tài tình, nên thơ.

Một không gian êm đềm, tĩnh lặng. Ao thu “lạnh lẽo” bởi khí thu bao trùm. Nước ao thu “trong veo” có thể nhìn thấy tận đáy ao. Chiếc thuyền câu, thuyền nan “bé tẻo teo”. Vùng đồng chiêm trũng Yên Đổ thuộc huyện Bình Lục, Hà Nam, quê hương cụ Tam nguyên, hầu như nhà nào cũng có một cái ao nhỏ trong vườn; ao nhỏ nên chiếc thuyền câu cũng “bé tẻo teo”.

Gió thu lành lạnh, nhè nhẹ thổi nên làn sóng biếc trên mặt ao thu chỉ xao động lăn tăn “hơi gợn tí”. Và chiếc lá thu, lá vàng “khẽ đưa vèo”. Cảnh vật từ sóng biếc đến lá vàng “khẽ đưa vèo” vừa đẹp thơ mộng, vừa êm đềm tĩnh lặng. Tác giả tả ít mà gợi nhiều, chỉ chấm phá, lấy động tả tĩnh làm nổi bật cái thần thái mùa thu trên vùng đồng bằng sông Hồng.

Không gian nghệ thuật được mở rộng về các chiều cao, chiều xa, chiều dài và chiều rộng. Bầu trời thu “xanh ngắt”, tầng mây nhẹ trôi “lơ lửng” như khách thơ lang thang du nhàn. Ai cũng cảm thấy bầu trời thu thoáng đãng, bao la, mênh mông, mỏng như dải lụa xinh xắn.

Nhìn về bốn phía làng quê, chỉ thấy “ngõ trúc quanh co”. Không một bóng người qua lại, “khách vắng teo”. Lấy cảnh để ngụ tình, nhà thơ tinh tế thể hiện tâm hồn cô đơn của mình.

Cảnh vật trong “Thu điếu” được chấm phá bằng đường nét tài hoa: bé tẻo teo, hơi gợn tí, khẽ đưa vèo, lơ lửng, quanh co; được điểm nhãn bằng màu sắc: nước trong veo, sóng biếc, lá vàng, trời xanh ngắt. Đó là sắc thu quê hương nhà thơ, sắc thu của vùng nông thôn Bắc Bộ. Cảnh vật êm đềm, thơ mộng, mơ hồ, xa xăm. Nét thu nào cũng đẹp, thân thuộc, đáng yêu. Nguyễn Khuyến đã trang trải tâm hồn trên từng cảnh thu, nét thu, biểu lộ một tình thu, tình quê nồng hậu, đằm thắm, thiết tha.

Hai câu kết biểu lộ một tâm thế nhàn:

    “Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,

    Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.

   Cái tư thế “ôm cần” của Nguyễn Khuyến được người đọc liên tưởng đến Lã Vọng câu cá bên bờ sông Vị để chờ thời hơn mấy nghìn năm về trước. Có điều, cụ Tam nguyên không chờ thời mà bất lực trước thời cuộc, cáo quan về ở ẩn tại quê nhà: “Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu”.

“Cá đâu đớp động dưới chân bèo” là một nét vẽ lấy động để tả tĩnh, lấy ngoại cảnh để phô diễn tâm hồn nhà thơ, đồng thời làm nổi bật bức tranh tâm cảnh mùa thu câu cá.

Qua “Thu điếu”, ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của Tam nguyên Yên Đổ: yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương, một phong thái thanh cao, nhàn tản và thanh bạch.

Tổng kết

Trên đây là Top 5 mẫu phân tích bài thơ câu cá mùa thu của nhà thơ Nguyễn Khuyển hay nhất được Bảng xếp hạng tổng hợp gửi tới các bạn học sinh, Truy cập bangxephang.com thường xuyên để cập nhật được nhiều tin tức hay mỗi ngày nhé!

Hãy Đánh Giá post