TOP 9 Mẫu phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ 2022 siêu hay đạt điểm cao

Với tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ chính là một tác phẩm được chính tác giả Hàn Mặc Tử xem là hay nhất trong suốt cuộc đời sáng tác,đã được đưa vào trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn 11.

Ở Bài viết dưới đây bangxephang.com gửi tới các bạn bài viết tham khảo về phân tích tác phẩm thơ Đây thôn Vĩ dạ mong rằng các bạn sẽ nắm rõ được cách phân tích cũng như nắm được nội dung chính và giá trị nội dung, nghệ thuật của chính bài thơ Đây thôn Vĩ dạ.

Lập dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả

– Giới thiệu bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

II. Thân bài

1. Phân tích khổ 1: Bức tranh tuyệt đẹp về cảnh vật, con người xứ Huế.

– Bức tranh được hiện lên qua lời mời trong đó hàm chứa sự trách móc mà thân thiết:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

– Cảnh vật hiện lên qua vài nét phác họa nhẹ nhàng, duyên dáng, đầy ấn tượng của màu xanh như ngọc của ánh sáng tinh khôi buổi ban mai.

– Cuối cùng là nét chấm phá độc đáo tương phản giữa cái vuông vức của khuôn mặt chữ điền với chiếc lá trúc che ngang, gợi lên nét tinh nghịch mà dịu dàng, dễ thương vốn dĩ ở thôn quê.

2. Phân tích khổ 2: Cảnh buồn qua cái nhìn đầy nội tâm.

– Cảnh đẹp và thơ mộng, nhưng lay lắt buồn bã trong cảm giác chia lìa bằng hình thức thơ độc đáo: Gió theo lối gió / mây đường mây. Dòng sông như tấm gương ghi nhận hình ảnh chia lìa đó, nên buồn thiu, hoa bắp cúng lay lắt buồn thiu, chia sẻ với tâm trạng nhà thơ.

– Trăng chiếm một dung lượng khá lớn trong thơ Hàn Mặc Tử và ánh trăng thật kì lạ, khác thường. Ta từng gặp trong thơ của ông, hình ảnh:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi

(Bẽn lẽn)

– Câu phiếm định: “thuyền ai?”, rồi lại “bến sông trăng”. Quả thật, đúng như Hoài Thanh viết về Hàn Mặc Tử, trong “Thi nhân Việt Nam”: “Vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh”.

3. Phân tích khổ cuối: Cảnh vật, con người đều chìm sâu vào mộng ảo.

– Cõi lòng nhà thơ dường như chìm vào mộng tưởng (mơ khách đường xa). Bệnh tật cũng đã khiến nhà thơ rơi vào trạng thái buồn đau ảo giác (nhìn không ra, mờ nhân ảnh). Bởi vậy, con người cảnh vật tất cả đều nhòa mờ trong cô đơn, ngậm ngùi.

– Trong cô đơn, ngậm ngùi, trong mộng ảo đau thương, nhưng lòng nhà thơ vẫn cứ âm thầm muốn gởi đến con người, cuộc đời một thông điệp, nó như lời trần tình tội nghiệp:

Ai biết tình ai có đậm đà?

– Ta chưa thể quyết rằng câu thơ ấy thể hiện tình yêu nước của Hàn Mặc Tử đến mức nào. Thế nhưng, chắc chắn rằng Hàn Mặc Tử rất yêu cuộc đời, rất yêu quê hương xứ sở. Ta cũng không ngờ trong tập Thơ Điên lại có những vần thơ đậm đà, chan chứa tình quê đến thế.

III. Kết bài

– Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử | Văn mẫu 11

Bài văn Dàn ý Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ học sinh giỏi mẫu số 1

Khi được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một “Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc”. Cái “lạ” của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái “lạ” mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo khi bước vào làng thơ, thì hẳn ai cũng rõ.

Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tưởng của hồn, trăng, và máu đã không thôi ám ảnh những ai yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng ai có thể tưởng đến giữa một rừng thơ ma quái và kì dị ấy, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa ấy Hàn đặt tên “Đây thôn Vĩ Dạ”, trong nó chứa chở bao cảm xúc và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao…

Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và tuyệt vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đau đớn nhất cuộc đời, chàng lại nhận được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao cảm xúc ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ…

Thi phẩm bắt đầu bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Không phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đau đớn như ta từng gặp:

Tôi vẫn ở đây hay ở đâu

Ai đem bỏ tôi xuống trời sâu

Sao bông phượng nở trong màu huyết

Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời thở than: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ khi được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng.

Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những cảm xúc khó mờ. Là “không về” chứ không phải “chưa về”, là “về chơi” chứ không phải “về thăm”. Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ mà hàm ẩn bao ý niệm.

“Chưa về” nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, “về thăm” nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tâm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ hiện ra, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là không gian ngập tràn sắc nắng. Không phải “nắng ửng” trong làn khói mơ tan, không phải “nắng chang chang” dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ “nắng mới”, không huyền hồ ảo diệu, không đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo đến lạ.

Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhàng, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đắm mình trong nắng mới. Cái “mướt” mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái “ngọc” mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo đến lạ.

Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân thương của con người nơi đây. Không tả mà chỉ gợi, bằng bút pháp cách điệu hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế chân thật, dịu dàng, về con gái Huế đằm thắm, nữ tính, thấp thoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng ấy trong câu thơ của Bích Khê:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say.

Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân thương. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, đôi khi niềm thương bắt đầu từ những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi bình thường như thế. Hóa ra, không chỉ Hoàng Phủ, không chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những yêu thương…

Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót khi nhắc về Huế mà bỏ quên cảnh sông nước đêm trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng ấy, thi sĩ đã kéo cái nhìn của người đọc sang một miền không gian khác, chơi vơi giữa gió mây, lặng mình theo dòng nước:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm mặc. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Không khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá. Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa.

Quả vậy, đây không chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm cảnh, là điệu tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở đây gió mây đôi ngả, xa cách như chẳng thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Đến nỗi mà, cái buồn đã được gọi thành tên: “buồn thiu”. Hai chữ “buồn thiu” đã gói trọn nỗi buồn đau của con người, của mối trần duyên tê tái. Thấp thoáng nơi ấy câu dân ca thuở nào:

Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?

Nhưng không biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong không thể làm chủ, mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở nên thật hư ảo huyền hồ:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Thuyền, trăng, bờ bãi vốn không phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có ai viết:

Nước biếc non xanh thành gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạch khách lên lầu.

Nhưng cái khác biệt ở đây là, thi sĩ không đứng đó mà ngắm trăng hay ngắm sông, người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng không phải “trăng vàng trăng ngọc”, “trăng nằm sóng soãi”, mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mông lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình ai thấp thoáng, mờ nhòa trong trăng.

Tất cả ngập một màu trăng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo âu, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại.Sự phấp phỏm âu lo và những mong được níu giữ thời gian ấy hiện lên rõ nhất ở chữ “kịp” và câu hỏi đầy tội nghiệp kia.

Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời gian, thời gian đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua không phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu – đó là được sống. Được sống không thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khao khát. Nhân văn của thi phẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày khi còn đang được sống.

Niềm khao khát tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, khi mà thế giới đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:

Mơ khách đường xa khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Chữ “mơ” đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi “khách đường xa” đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngẩn ngơ buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm không thể chạm đến. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở nên mờ nhòa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn: Ở đây sương khói mờ nhân ảnh.

Không gian mông lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo ảnh. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người đến tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”, ta thảng thốt nhận ra, hóa ra bấy lâu người thi sĩ cũng chỉ mong chờ điều ấy, khao khát điều ấy, đó là tình người, tình đời.

Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, đến cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, không “kì dị” như bao người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, mà có lẽ đến nhiều năm sau này vẫn có không ít người ghi nhận điều ấy.

Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khao khát, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Đặc sắc của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang phong cách riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với nhưng câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang theo ý niệm riêng, cùng lối viết cách điệu hóa, pha lồng ảo thực, “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.

“Mai sau, những thứ tầm thường mực thước sẽ biến mất đi, và còn lại của thời kì này một chút gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử”. Lời trân trọng mà người bạn thơ Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế…

Bài văn Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 2

Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một trong những cái tên nổi trội nhất với lối thơ đặc trưng vừa lãng mạn tươi trẻ, vừa bi thương day dứt, tất cả đều tới từ cuộc đời có quá nhiều đớn đau, đau xót của người nghệ sĩ trẻ bạc phận. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những sáng tác nổi trội và xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử, đồng thời cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của phong trào thơ Mới. Bài thơ mang đậm dấu ấn sáng tác của tác giả lúc vừa chứa đựng những nội dung trong sáng, thanh khiết vô ngần, bộc lộ tấm lòng yêu tự nhiên, yêu cuộc đời tha thiết, đồng thời cũng bộc lộ những nỗi ám ảnh, tiếc nuối của tác giả trước số phận nghiệt ngã của bản thân thông qua những vần thơ kỳ dị, phức tạp đan xen giữa cảnh thực và cảnh mơ.

Hàn Mặc Tử là một thi sĩ tài năng nhưng có cuộc đời nhiều xấu số đắng cay, lúc ông xui xẻo mắc phải căn bệnh phong quái ác lúc tuổi đời còn trẻ, sự nghiệp đang thời kỳ nở rộ nhất, đặc trưng trong tình yêu Hàn Mặc Tử cũng lại là người kém may mắn lúc phải chịu nhiều tổn thương, day dứt. Trong thời kỳ cuối đời, ông trở về mảnh đất Quy Nhơn để chữa trị thì bỗng thu được tấm bưu thiếp có in hình phong cảnh Huế, trên bức thiếp đó là những dòng chữ nhắn gửi của nàng Kim Cúc, cô gái nhưng mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đã dấy lên trong cõi lòng cô độc của người nghệ sĩ những xúc cảm hạnh phúc, vui tươi, lòng ông dào dạt những tình cảm nhớ mong Huế, nhớ về một xứ Huế đẹp tươi, đồng thời bộc lộ tấm lòng khát khao sống, khát khao hạnh phúc tới tột cùng thông qua những vần thơ đầu thật tươi sáng, trong trẻo.

“Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Mở đầu bài thơ là một lời hỏi ngỏ rất dễ thương, đậm chất xứ Huế “Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?”, đó có thể là lời hờn trách vu vơ của một người con gái ngóng chờ mãi ý trung nhân về thăm Huế, thăm mình cho thỏa nỗi nhớ mong, rồi đó cũng có thể là một lời mời mọc thân tình của một người bạn xa, muốn tác giả một lần về lại Huế, thăm lại chốn cố đô yên bình. Rồi sau thẳm trong lời hỏi ngỏ đó, ta cũng dường như nhìn thấu lòng tác giả, Hàn Mặc Tử phải chăng cũng đang hỏi chính bản thân sao ko về thăm lại chốn quê cũ, trình bày sự bất lực trước bệnh tật, trước hoàn cảnh trớ trêu của bản thân.

Tổng hợp 10 bài viết về tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết nhất - Top Báo Cáo Thực Tập Tốt Nhất

Top 8 Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

Trong dòng hồi ức, thôn Vĩ của Hàn Mặc Tử đã xuất hiện với một hình ảnh đặc trưng, đó là những khu vườn với hàng cau thẳng tắp đón nắng lên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đặc trưng, có tính nói chung và ấn tượng, nắng hàng cau tức là nắng buổi sớm, mặt trời đã lên khá cao, đương độ ấm áp nhất, và cũng ko nóng gắt như buổi ban trưa. Giữa quang cảnh đó, ánh nắng bao trùm ko gian, phủ lên những ngọn cau xanh một màu vàng nhạt, mở ra một ko gian trong trẻo, tràn đầy sức sống, cũng như sự yên bình, yên tĩnh nơi làng quê. “Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc”, từ phiếm chỉ “vườn người nào” đã đem vào cho bức tranh tự nhiên thêm sự ấm áp của tình người, kế bên cái ấm áp của nắng sớm, quang cảnh càng trở thành hài hòa lúc có sự giao hòa giữa con người với tự nhiên.

Những tính từ “mướt quá”, “xanh như ngọc” đều là những nét vẽ thật tài tình và đầy tinh tế của Hàn Mặc Tử lúc nhớ về thôn Vĩ Dạ, chúng đã khôn khéo, mở ra một bức tranh tự nhiên dịu dàng, sinh động, trong trẻo, tinh khiết và tràn đầy sức sống. Đấy là cái non tươi mỡ màng của cây lá, là sự trong sạch mát lạnh của những giọt sương sớm còn đọng lại sau một đêm dài, nhưng mà dưới cái nắng ấm áp chúng ánh lên thật đẹp như những ngọc ngà châu báu, khiến người ta ko khỏi suýt xoa ngỡ ngàng. Tới câu thơ cuối, văn pháp thi trung hữu họa đã thực sự làm rõ và nổi trội vẻ đẹp của con người xứ Huế trong bức tranh quê, “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”, lấy cái sự mảnh nhỏ, vắt ngang của lá trúc để làm nổi trội lên khuôn mặt chữ điền, phúc hậu, dịu dàng và thông minh của người con gái Huế, đó có thể cũng là bóng hình nhưng mà Hàn Mặc Tử vẫn thường nhung nhớ, một con người với những vẻ đẹp cổ điển và tâm hồn đáng quý, đại diện cho cả một vùng đất với những con người thân yêu nhưng mà tác giả ngày đêm hướng về.

Nếu như ở khổ thơ trước hết, Hàn Mặc Tử nhìn đời, nhìn người với ý thức tích cực, sáng sủa, tràn đầy kỳ vọng, bằng bức tranh tự nhiên tươi sáng, trong trẻo, thì tới khổ thơ tiếp theo, mạch xúc cảm của tác giả đã nhanh chóng thay đổi theo sự thay đổi giữa ngày và đêm, giữa hai bức tranh tự nhiên hoàn toàn khác lạ với những gam màu mới.

“Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Từ bức tranh tự nhiên tươi sáng, với những gam màu ấm áp, thanh mát, giản dị, Hàn Mặc Tử đã chuyển ngay sang quang cảnh đêm tối với bức tranh sông nước mênh mông lạnh lẽo, sâu kín trình bày sự trống vắng, cô độc đang len lỏi trong lòng tác giả. Hình ảnh “Gió theo lối phong vân đường mây” là hình ảnh buồn, lạc lõng, gợi sự chia ly, tan rã ko ngày gặp lại. Rõ ràng gió và mây là hai thực thể luôn gắn liền, gió thổi kéo mây bay, dường như gắn bó như hình với bóng, đó thế nhưng mà trong thơ Hàn Mặc Tử gió và mây lại tách biệt, hai thứ hai nơi dường như chẳng chút liên hệ. Phải chăng đây là hàm ý cho mối tình của ông với nàng Kim Cúc, hai người giờ đây đã dường như xa cách phương trời, và rồi nay mai nữa chính là âm dương chia cắt. Rồi cảnh mây gió đó cũng lại gợi liên tưởng tới sự liên quan của tác giả với thế gian, dường như phút giây này, ông cũng đã mở màn cảm thu được bản thân ko còn nhiều thời kì, dường như sự sống đối với ông ngày càng xa cách, cuộc đời trần thế của ông có nhẽ cũng chẳng còn nhiều nữa. Chính những suy nghĩ và hiện thực đã càng dày vò thêm trái tim mới vừa được thắp lên kỳ vọng của Hàn Mặc Tử. Một tấm thiếp đã khiến ông vui, tưởng chừng đã thoát khỏi cái u mê, tối tăm của cuộc đời, thế nhưng nó vẫn ko thể thắng lợi được sự nghiệt ngã của số phận và bản thân ông bị buộc phải tỉnh mộng quay trở về với thực tại đau thương.

Tới câu thơ tiếp theo “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”, thực đúng với câu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của Nguyễn Du, trước nỗi buồn số phận, Hàn Mặc Tử nghĩ về dòng sông Hương hiền hòa, đã trải qua bao thăng trầm lịch sử, ông dường như thấy dòng nước đó cũng như đang hiểu được nỗi buồn của mình, lặng lẽ buồn thiu, một nỗi buồn lặng lẽ ko biết tỏ bày cùng người nào, cô độc, lạc lõng ko một người bầu bạn. Hình ảnh “hoa bắp lay” là một hình ảnh có ý nghĩa đặc trưng, hoa bắp vốn là loài hoa ko sắc, ko hương, mờ nhạt lại nhanh héo tàn. Nó dường như chính là hình ảnh cuộc đời của Hàn Mặc Tử lúc cuối đời, tàn úa chỉ mặc cho gió lung lay nhưng mà ko thể chống đỡ lại số phận, điều đó làm cho người ta ko khỏi xót xa cho cuộc đời người nghệ sĩ bạc phận, cũng như những nỗi đau nhưng mà ông đã phải chịu đựng trong suốt cuộc đời.

Đang trong lúc buồn khổ, vô vọng và lẻ loi nhất Hàn Mặc Tử lại nhớ tới trăng, người bạn tri kỷ duy nhất ông có thể tâm tình và thấu hiểu ông. Cảnh bến thuyền, ánh trăng sáng là một trong những hình ảnh thường thấy xuất hiện trong thơ ca cổ điển, mô tả cảnh sông nước thanh vắng, êm đềm, và có đôi chút hiu quạnh. Tới trong thơ của Hàn Mặc Tử cảnh tượng này lạ mắt và thông minh hơn với câu hỏi “Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?”, đó là một câu hỏi đầy tâm tình, giữa cảnh sông nước mênh mông, ánh trăng loang vàng khắp mặt nước, có một chiếc thuyền lặng lẽ nằm yên, thật thơ mộng trữ tình biết mấy. Lòng Hàn Mặc Tử lại ko được yên bình như thế, người vội hỏi thuyền người nào neo bến, người vội hỏi có mang trăng về kịp ko, có mang người bạn tâm giao về kịp ko. Hình như ta thấy Hàn Mặc Tử đang vội vã, lo lắng, lòng ngập tràn nỗi hoang mang, sợ rằng bản thân ko còn nhiều thời kì nữa, ko còn có thể chờ kịp ánh trăng về chiếu rọi lòng ông. Càng đọc, càng hiểu sâu tấm lòng người thi sĩ, càng biết được những mối lo, những nỗi lẻ loi, bất lực của ông ta lại càng thương cho một kiếp người nhiều đớn đau, lúc cả tình yêu, cả sự sống đều nằm ngoài tầm tay với. Tất cả những nỗi đau trong thơ, những vô vọng về cuộc đời của Hàn Mặc Tử đều bộc lộ thực rõ tấm lòng khát khao sự sống, khát khao tình yêu tới quằn quại, mặc dù trong thâm tâm tác giả đã nhiều lần buông bỏ, chấp nhận số phận, thế nhưng chỉ cần có một tí niềm tin, thì tấm lòng đó lại rộn rực, vui sướng hơn bao giờ hết. Mặc dù tất cả cũng như pháo hoa rực rỡ, đẹp, nhưng chóng nở chóng tàn.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn ko ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà”

Đang từ cõi thực, Hàn Mặc Tử chuyển bước vào cõi mơ, trình bày rất rõ cái hông thơ phức tạp và khó hiểu hàng đầu của mình trong làng thơ ca Việt Nam tiên tiến. “Mơ khách đường xa khách đường xa”, đó cũng là một câu thơ mập mờ, ko rõ ý, “khách đường xa” được lặp lại hai lần, như nhấn mạnh sự xuất hiện của nhân vật này, tuy nhiên càng nêu bật lại càng mờ mịt. Vị khách đó là từ trong mơ, ko rõ mặt, ko rõ dung mạo, chỉ biết là họ đang ngày càng xa tầm với, xa mãi ko trở lại, ám chỉ sự vô vọng của Hàn Mặc Tử trong mối tình với nàng Kim Cúc xứ Huế, cũng như sự tồn tại của ông trên cõi đời ngày càng trở thành mỏng manh, mờ mịt. Tác giả đã cách nhân thế rất xa, dần trở thành một vị khách xa lạ, đi một chặng đường ngắn ngủi chừng 28 năm, rồi rời đi vô thanh, vô sắc, liên tưởng đó khiến người ta vừa ám ảnh, vừa xót xa cho cuộc đời người thi sĩ.

Tới câu thơ tiếp “Áo em trắng quá nhìn ko ra”, là bóng vía chập chờn của người con gái ông yêu trong tiềm thức, bộc lộ khoảng cách ngày một xa xôi giữa ông và nàng, đó ko chỉ là khoảng cách về địa lý, nhưng mà còn là khoảng cách tâm hồn, khoảng cách sinh ly tử biệt ko thể vãn hồi. Chính những khoảng cách đó, đã khiến Hàn Mặc Tử ngày càng vô vọng, và bóng vía cô gái năm xưa ngày càng trở thành mờ mịt, ông nhìn ko rõ, sờ ko được, muốn nhưng mà ko thể chạm tới đầy xót xa. Để giảng giải cho cái sự mờ nhạt, ko rõ của nhân vật “em”, tác giả đã viết “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”, nhằm xóa bớt khoảng cách, vịn vào lý do sương khói mờ mịt xứ Huế làm ông ko thể thấy rõ, thế nhưng nó lại càng nhấn mạnh vào cái sự mờ mịt, thất vọng và vô vọng của Hàn Mặc Tử trước cuộc đời, lúc chính bàn tay ông cũng không thể nào vén lớp sương mù để tìm thấy bóng hình mến thương, cũng không thể chống lại số mệnh từ chối cái chết.

Sự đớn đau, tự ti số phận đã khiến tác giả ko thể mở lòng mình để hiểu rõ tình cảm của nàng Kim Cúc, cũng như không thể đưa bản thân thoát khỏi những mộng tưởng dày đặc, trước tình cảnh đó ông chỉ còn có thể thốt lên “Người nào biết tình người nào có đặm đà?”, đó như là lời gửi tới người con gái phương xa liệu có còn nhớ mong kẻ tội nghiệp này, rồi cũng là lời trách móc nhiều đau thương lúc lòng ông lo sợ Kim Cúc vốn đã ko còn mặn nhưng mà với đoạn tình cảm này từ lâu. Cuối cùng đó còn có thể là lời yêu ông muốn nhắn gửi một cách thật ý nhị, kín đáo vì biết mình ko còn sống được bao lâu tới cô gái xứ Huế, ông muốn nàng biết tình cảm của mình, lại cũng muốn nàng ko biết, sự phức tạp và tranh chấp đó chính là xuất phát bởi một tâm hồn có quá nhiều tổn thương, đồng thời đang tiến dần những ngày cuối của cuộc đời trần thế, chính lẽ đó người ta ko thể có quá nhiều tự tin, hay là gieo rắc kỳ vọng, tình yêu cho một người nào khác. Chi bằng tự ôm lấy nỗi đau, tình yêu vô vọng đó một mình cho tới hết cuộc đời ngắn ngủi.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm xuất sắc và đặc trưng nhất trong suốt đời thơ của Hàn Mặc Tử lúc chứa đựng đầy đủ phong cách sáng tác của ông, đồng thời nội dung thơ ấn tượng với nhiều xúc cảm phong phú được trình bày trong các bức tranh tự nhiên từ sáng sớm tới tối muộn, từ cảnh thực tới cảnh mơ. Bộc lộ được tài năng sáng tác, cũng như một tâm hồn dù có chịu nhiều đau thương, xấu số, thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn giữ gìn vẹn nguyên được tấm lòng yêu cuộc sống, những khát khao hạnh phúc, tình yêu thực giản dị, mặc dù điều đó đối với người nghệ sĩ đã là quá xa tầm với.

Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - HocTotNguVan.vn

2. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 3

Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã có một nhận định rất thâm thúy về phong trào thơ Mới như sau: “Đời chúng ta nằm trong vòng một chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu ko bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn chơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”. Nếu như Xuân Diệu luôn đắm say với những xúc cảm thiết tha, rộn rực băn khoăn thì thi sĩ Hàn Mặc Tử lại gắn liền với sự kỳ dị, điên cuồng và trong toàn cầu kỳ dị điên cuồng đó người ta vẫn tìm thấy một tình yêu tới đớn đau, khắc khoải hương về cuộc đời trần thế, dẫu nó đã để lại cho ông nhiều xấu số, bi người nào. Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của Hàn Mặc Tử, được coi là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất và hay nhất của phong trào thơ Mới cũng như trong nền văn học Việt Nam hiện đại.

Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912 trong một gia đình đạo thiên chúa nghèo tại Quảng Bình, nổi tiếng rằng thần đồng thư từ những năm 15, 16 tuổi. Phong cách thơ của ông có sự đan xen liên kết giữa những hình ảnh thân thuộc, trong trẻo, thanh khiết, thiêng liêng nhất với những thứ rùng rợn, ma quái, cuồng loạn đã tạo nên một dung mạo thơ vô cùng kỳ dị và phức tạp. Đây thôn Vĩ Dạ sáng tác năm 1938 in trong tập thơ Điên, sau đổi tên thành Đau thương, bài thơ ra đời trong hoàn cảnh mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với cô gái gốc Huế là Hoàng Thị Kim Cúc dường như đã trở thành vô vọng lúc hai người vừa xa cách cả địa vị lẫn địa lý. Trong sự hẫng hụt tới tột cùng đó Hàn Mặc Tử đã viết rất nhiều thơ về sự kiện này, trong đó khác lạ có bài Đây thôn Vĩ Dạ được viết trong lúc bệnh tình của Hàn Mạc Tử trở nặng nhưng lại thu được tấm bưu thiếp của người xưa, điều đó đã khơi gợi lên trong lòng ông sự vui sướng, niềm ham sống vô cùng, tất cả đều được trình bày một cách trọn vẹn trong bài thơ này. Ko chỉ vậy Đây thôn Vĩ Dạ còn là thông điệp nhưng mà Hàn Mặc Tử muốn gửi gắm cho cả cuộc đời này, là nỗi niềm khát khao, tha thiết với cuộc sống trần thế một cách mãnh liệt của thi sĩ.

“Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

Ở khổ thơ đầu của bài thơ phong cảnh tự nhiên của thôn Vĩ Dạ, một góc của xứ Huế mộng mơ đã được mở ra với dáng vẻ trong sáng thanh khiết dưới cái nắng mai dịu dàng. Câu hỏi tu từ “Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?” mang một âm sắc đặc trưng bởi đã số chữ đều mang thanh bằng đã mang đến một cảm giác rất Huế, rất ngọt ngào êm ái tựa như bức rèm mỏng đã mở ra và khơi gợi nên mạch xúc cảm mộng và thơ cho toàn thể tác phẩm. Câu hỏi tu từ đó cũng khiến ta có một mối băn khoăn ko dứt về chủ thể “anh”, đó là câu hỏi nhớ mong của một cô gái xứ Huế, mang ý trách móc, hờn dỗi một cách duyên dáng chàng trai sao ko chịu tỏ lòng mình, rồi cũng có ý nhắc nhở, mời mọc người bạn cũ về thăm Huế. Hoặc đó cũng có thể là tiếng lòng của Hàn Mặc Tử, vừa chất vấn, cũng vừa nhắc nhở bản thân sao “ko về chơi thôn Vĩ” và trong cái “ko về” đó là cả một dự cảm đớn đau về cuộc đời xấu số, trước đó anh đã ko về được thì có nhẽ sau này cũng ko thể về được nữa, Hàn Mặc Tử đã chẳng còn nhiều thời kì, đành lỡ hứa hẹn với Huế và người xưa. Có thể nhìn thấy được rằng về Huế có nhẽ là nỗi trằn trọc, nuối tiếc vô cùng của thi sĩ, đó ko chỉ là nơi ông từng gắn bó một thời kì dài nhưng mà ở tại nơi đó còn có người con gái nhưng mà ông mến thương tha thiết, chẳng biết nàng có đợi ko, nhưng ông vẫn chỉ hướng về người. Sau câu hỏi tu từ mang đậm nỗi khát khao cháy bỏng được về lại Huế một lần, thì Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ rất đẹp để tái tạo lại cảnh thôn Vĩ Dạ đầy chất thơ và mộng ảo. Đó là cảnh thôn quê trước buổi rạng đông với những nét vẽ tươi tỉnh và rực rỡ, đó là vẻ đẹp của nắng với hai từ “nắng” lặp lại trong một câu thơ “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”.

Top 10 Bài văn phân tích tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử hay nhất - Toplist.vn

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ để tình yêu cuộc đời tha thiết của Hàn Mặc Tử

Có thể nói rằng ngòi bút của Hàn Mặc Tử là một ngòi bút tài hoa trác việt, người sẵn sàng phá vỡ cái quy tắc lặp từ tối kỵ của thi ca để tạo nên một bức tranh với cái nền vàng nhàn nhạt, ánh nắng nhu hòa tràn trề khắp ko gian, khiến vần thơ cũng như được thổi bừng sức sống ấm áp và tươi trẻ. Và cái nắng ở đây cũng rất riêng đó là “nắng hàng cau”, phải nói rằng cau là biểu tượng của xứ Huế, loài cây có lợi thế về chiều cao, lúc nào cũng vươn lên thẳng tắp và đón nhận một cách trọn vẹn nắng trời, toàn cây nhấp nhánh những ánh sáng xanh vàng, khiến hồn người trở thành yêu đời hơn cả. Rồi “nắng mới lên” lại cũng là những cảm tưởng mới về hình ảnh nắng của thôn Vĩ đó ko phải là cái nắng gay gắt đổ lửa giữa trưa hè nhưng mà đó là cái nắng trong trẻo, thanh khiết, dịu dàng hoàn toàn tương khớp với “nắng hàng cau”, cũng mang một sức sống mới, tựa như tâm hồn của thi nhân lúc nhận bưu thiếp của người cũ, có nhẽ phải nói rằng đó là biểu tượng của sự khởi đầu.

Dưới vẻ đẹp của nắng vàng bao phủ là vẻ đẹp của khu vườn xứ Huế với một màu xanh rất “mướt” đầy sức gợi với màu “xanh như ngọc”. Chỉ một từ “mướt” thôi nhưng đã gợi ra cái sự trù phú, non tươi, mỡ màng tràn đầy sinh khí của khu vườn thôn Vĩ, rồi cũng gợi ra cảnh một khu vườn mới tắm sương đêm đang còn đọng nước, từng giọt sương trong trẻo đang lung linh dưới ánh mặt trời, phản chiếu lại những tia nắng mới làm cho từng tán lá xanh phát sáng, khơi gợi liên tưởng về một màu xanh ngọc ngà, trong trẻo, tươi mát.Câu thư lại thêm một từ “người nào” phiếm chỉ làm cho toàn cảnh bức tranh trở thành có hồn và tình tứ hơn cả, từ đó làm nổi trội lên vẻ đẹp của người thôn Vĩ trong câu “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Hàn Mặc Tử đã dùng văn pháp “thi trung hữu họa” của văn học trung đại với những nét vẽ vừa thanh của lá trúc lòa xòa làm nổi trội lên cái nét đậm của một khuôn mặt chữ điền duyên dáng, phúc hậu của người con gái. Đó là gương mặt mang những nét đẹp phẩm chất nhưng mà người ta vẫn mong cầu ở người con gái, nhân hậu, thủy chung, mang tướng hình có phúc phần về sau.

Hết tả cảnh ngày tươi tỉnh, trong trẻo, Hàn Mặc Tử lại đưa người đọc về với cảnh đêm của xứ Huế, có nước có mây, có thuyền và đặc trưng là có cả ánh trăng, thi liệu thân thuộc trong thơ của tác giả. Có thể thấy rằng giữa hai khổ thơ có sự chuyển đổi xúc cảm rất rõ rệt từ tình yêu đời, lòng vui sống tựa như nắng mai thì Hàn Mặc Tử lại trở về với cảm giác hoang mang, lo lắng với những cảm giác bất an, rầu rĩ tựa như cảnh sông nước mênh mông lạnh lẽo.

“Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hai câu thơ đầu tả thực cảnh mây trời, sông nước xứ Huế với lối ngắt nhịp 4/3 tựa như bẻ đôi câu thơ làm hai nửa, tạo cảm giác hụt hẫng khó tả, điệp từ “mây”, “gió” lại mang tới sự đóng khung trong việc tả cảnh. Tương tự dường như mây và gió chẳng phải liên quan gì tới nhau, đường người nào nấy đi trong lúc từ xưa tới nay mây đi theo gió đã là chuyện kinh thiên khái niệm, điều này bộc lộ rõ nội tâm và dự cảm ko lành của Hàn Mặc Tử trước sự chia ly, xa cách gớm ghê, đó là tử sinh, chứ chẳng còn là khoảng cách hay tâm hồn nữa. Từ điệu chảy lững lờ, ngập ngừng “buồn thiu” của dòng sông Hương nổi tiếng đi vào thơ đã trở thành hình ảnh nhân hóa phản chiếu nỗi lòng sầu muộn của thi nhân trước số phận. Nhưng mà có nhẽ rằng “hoa bắp lay” chính là cuộc đời của tác giả, nhạt nhòa, buồn tẻ và lặng lẽ ngao ngán. Hai câu thơ tả cảnh sông nước dường như đã xóa tan đi cái mộng cảnh biêng biếc, tươi trẻ tràn trề sức sống và hơi ấm tình người trong khổ thơ đầu, là sự bừng tỉnh của tác giả trước tình cảnh thê lương của bản thân, trước trục đường tối tăm vô hương, vô sắc hiện hiện nay. Rồi dường như ko chịu đựng được cái đớn đau của thực cảnh Hàn Mặc Tử lại tiếp tục chìm vào cõi mộng với ánh trăng vàng, vốn là tri kỷ tri kỉ suốt đời của tác giả ở chốn lẻ loi này. Trăng xuất hiện rất diễm lệ là cả một dòng sông dát ánh trăng vàng, cả một con thuyền vận tải trăng, trăng đã mang đến cho tác giả một hiện thân về trần thế tươi đẹp, về cuộc đời nhưng mà tác khát khao được chiếm lĩnh hòa nhập. Câu hỏi “Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó/Có chở trăng về kịp tối nay?” ẩn hiện sự lo lắng của tác giả trước sự hữu hạn của đời mình, lo rằng liệu bản thân còn kịp tận hưởng ánh trăng sáng, hay chính là cuộc đời vốn còn nhiều nuối tiếc.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn ko ra…
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà?”

Khát khao về cuộc sống trần thế của tác giả càng trở thành nổi trội trong khổ thơ cuối lúc đi vào cụ thể đó là khát khao về hơi ấm tình người, Hàn Mặc Tử muốn thoát khỏi cái cảm giác cô độc, lạnh lẽo muốn tận hưởng cuộc sống bằng tình yêu. Cõi đời đã được chỉ rõ bằng hình bóng của mĩ nhân, là người trong mộng tưởng của tác giả thế nhưng “Mơ khách đường xa, khách đường xa” ý thơ lặp lại đã diễn tả một cảm giác xa lạ, hình bóng người con gái đó đang dần khuất ra khỏi tầm với của tác giả, cứ xa mãi nhưng mà dần vụt mất tới độ đôi mắt u sầu của người quá thi sĩ cũng phải xót xa “Áo em trắng quá nhìn ko ra”. Có nhẽ đời này đã định hai người ko chung một điểm cuối, chỉ có thể bất lực nhìn cái cõi tục thế, cái bóng hình mĩ nhân tuần tự trở thành vô tung vô ảnh, còn thi nhân thì chết lặng trong nỗi sầu muộn lẻ loi. Và lúc thi nhân ko thể hòa nhập vào với toàn cầu nhưng mà mình khát khao ông lại phải trở lại với toàn cầu của mình, một toàn cầu mờ mịt “mờ nhân ảnh” thiếu vắng đi tình người, bị cách li, phải đương đầu với cái chết kề cận, sắp xa vắng đi cái trần thế nhưng mà ông vẫn khát khao nắm giữ, đó là nỗi đớn đau ko tưởng. Đặc thù tâm hồn đó của thi sĩ còn mãi luẩn quẩn trong một câu hỏi băn khoăn, băn khoăn về tình cảm của người xưa, liệu rằng cô gái đó có từng một lần có tình cảm với ông, hay cô gái đó có biết tới mối duyên thầm lặng nhưng mà ông chẳng dám ngỏ đã bao năm. Rõ ràng rằng ta có thể cảm thu được niềm kỳ vọng mỏng manh về mối duyên tình đã nhỡ nhàng, bởi vì một tấm bưu thiếp nhưng mà lại dấy lên trong lòng thi nhân nhiều xúc cảm, thế nhưng kết lại vẫn là nỗi lẻ loi, trống vắng và cực khổ của một con người còn nhiều điều tiếc nuối với thế gian.

Có thể trích đôi lời Hoài Thanh về thơ Điên của Hàn Mặc Tử để nói về Đây thôn Vĩ Dạ, đó là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một vong linh vô cùng khổ não. Ta bắt gặp dấu vết còn thoi thóp của một tơ duyên vừa chết yểu. Thất vọng trong tình yêu, chuyện đó trong thơ ta ko ti tỉ nhưng thường là một thứ buồn, dầu có thấm thía vẫn dịu dịu. Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau thương mãnh liệt như thế. Lời thơ như dính máu”. Đọc thơ ta yêu cái khát khao được sống được yêu, yêu cái ánh mắt nhìn đời đầy tươi đẹp thế nhưng cũng xót xa cho số phận của người thi sĩ, một cuộc đời đớn đau khiến Hàn Mặc Tử ko thể mộng ước lâu được, nên cuối cùng vẫn phải trở lại cái chốn lẻ loi lạnh lẽo, ko người yêu, ko hơi ấm tình người, đợi chờ cái chết trong cực khổ và vô vọng.

3. Bài văn Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 4

Nhắc tới Hàn Mặc Tử ko thể ko nhắc tới bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ- một trong những tuyệt phẩm bất hủ của ông. Bài thơ được bắt nguồn cảm hứng từ bức bưu ảnh của Hoàng Thị Kim Cúc- người con gái ông từng thầm yêu. “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong thời kì ông đang điều trị bệnh ở Quy Hòa nên mỗi tứ thơ trong câu từ của tác phẩm đều mang một nỗi niềm khát khao được giao cảm của thi sĩ.

“Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ được sử dụng mở đầu bài thơ trình bày sự trông ngóng, nỗi mong đợi của người con gái đang thôn Vĩ. Câu hỏi vừa như lời trách móc kèm chút hờn dỗi, lại vừa như lời mời gọi, mong đợi. Lời thơ nhẹ nhõm như tiếng lòng của người xứ Huế, vừa da diết lại quá đỗi dịu dàng.

Sau câu hỏi từ từ là bức tranh tươi đẹp của thôn Vĩ hiện lên đầy sống động, tươi mắt, tinh khôi:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Phải chăng vì lời mời gọi thiết tha đó, nhưng mà dù đôi chân ko thể bước về Huế, Hàn Mặc Tử vẫn quyết trở về trong tiềm thức để ngắm nhìn và tận hưởng vẻ đẹp của chốn cũ, ý trung nhân. Hình ảnh trước hết ta là “nắng hàng cau”- một màu nắng thật đặc trưng trong thơ ca. Đó là cái nắng đầy mới mẻ, trong trẻo của buổi sớm rạng đông xứ Huế- “nắng mới lên”, những hàng cau vừa tỉnh giấc sương còn đọng trên lá long lanh dưới nắng sớm mai. Từ xa ngắm nhìn nắng hàng cau, lúc tới gần, được cảm nhận rõ hơn về vẻ đẹp của cảnh vật. Màu xanh ngọc bích vừa tươi tỉnh vừa sang trọng được gợi lên từ vẻ đẹp khu vườn. Tính từ “mướt” càng gợi lên vẻ non tơ, mềm mại, mỡ màng sức sống của cây lá. Phải chăng, mảnh vườn được tưới tắm bởi hương vị của tạo hoá, được chăm sóc bởi bàn tay khôn khéo của con người nhưng mà đẹp càng thêm đẹp, tươi càng thêm tươi. Bóng vía người con gái kín đáo, e ấp bước ra từ khu vườn cổ tích, ẩn hiện dưới lá trúc xanh lại càng tôn lên vẻ đẹp của ko gian và con người đất Huế. Ẩn sâu trong từng lời thơ trong sáng, thanh thoát và tươi tỉnh đó là một tâm hồn với khát khao mãnh liệt được giao cảm, được trở về chốn cũ, gặp lại sức xưa sau những tháng ngày xa cách. Nhưng có nhẽ điều đó thật khó có thể có được.

Sơ đồ tư duy Đây thôn Vĩ Dạ

Những bài Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

Nếu khổ thơ đầu gợi cho ta ấn tượng về buổi sáng trong ngần thì khổ thơ thứ hai cho dẫn chúng ta về với ko gian thuyền nước, sông trăng vào buổi xế chiều- đêm tối:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay

Gió và mây gợi sự trôi nổi, lang thang, giải pháp đối “gió theo lối gió, mây đường mây” càng nhấn mạnh sự chia li đôi ngả. Phải chăng, đó là hình ảnh ẩn dụ cho sự xa cách của thi sĩ với người mình thầm thương yêu, dù yêu nhưng ko thể cùng là bạn đồng hành trong quãng đời ngắn ngủi còn lại của kiếp người. Nghệ thuật nhân hóa “Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay” càng khẳng định nỗi sầu giăng trong lòng người thi sĩ, nỗi buồn thấm vào cảnh vật, hay chính tâm hồn thi sĩ đang sầu muộn, nhưng mà cảm nhận tự nhiên cũng sầu thương, buồn chán tới nặng lòng, bởi vốn dĩ:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Nếu khổ thơ đầu, nỗi buồn nhẹ nhõm, cảnh vật còn mang sự tươi tỉnh thì tới với khổ thơ hai, cảnh vật nhuốm màu buồn hơn, nỗi buồn và lẻ loi cũng vì thế nhưng mà thấm đẫm hơn:

“Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Chữ “kịp” được đặt trong câu hỏi tu từ “Có chở trăng về kịp tối nay?” cho thấy được nỗi hoài vọng của tác giả về một hạnh phúc, về một người có thể cùng thi nhân giao cảm. Trong câu thơ, ta thấy được sự bất lực trước thời kì của tác giả. Hình như, thi sĩ đã đem nỗi tự ti về căn bệnh quái ác của bản thân vào trong cả tứ thơ của mình.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn ko ra.”

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà.”

Từ “mơ” được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh giấc mộng của tác giả về một điều xinh xắn, có vị khách đường xa tới thăm, cùng đồng điệu, tâm tình với kẻ lẻ loi trong cảnh bệnh tật. Điệp từ “khách đường xa” được lặp lại càng khẳng định khát khao được gặp mặt của Hàn Mặc Tử nhưng có nhẽ giấc mộng đó không thể nào thành bởi vị khách đã xa lại càng xa.

Bằng ngòi bút đầy tài năng và nội tâm phong phú của mình, Hàn Mặc Tử đã mang tới cho độc giả những vần thơ xinh xắn. Trong chữ có tình, trong tình có chữ, những giác quan đầy tinh tế gợi cho người đọc bao dư vị về tình đời qua bài thơ.

4. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 5

Hàn Mặc Tử một trong những “cây bút” tài năng hàng đầu của phong trào thơ mới những năm 1932-1945 với nhiều tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, tác phẩm để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc có nhẽ là “Đây thôn Vĩ Dạ”- một bài thơ rực rỡ trong sự nghiệp văn học của ông. Bài thơ là bức tranh hài hòa giữa quang cảnh tự nhiên trong trẻo, tinh khôi xứ Huế với bức tranh tâm trạng của một cái tôi tha thiết yêu đời, khát khao giao cảm với cuộc sống, con người nhưng đầy những âu lo, trằn trọc.

Câu hỏi tu từ: “Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?” như hờn trách nhẹ nhõm lại như lời mời đầy tha thiết của người con gái xứ Huế. Một lời hờn trách đầy dịu dàng nhưng đằng sau đó là lời mời quan tâm và đầy thành tâm: “Sao anh ko về chơi”. Ở đây tác giả ko dùng từ “thăm” nhưng mà lại dùng từ “chơi” đủ để thấy sự thân thiết, thành tâm, mộc mạc, gợi lên được tình cảm thân tình, thân thiện. Và dường như, đó cũng là câu hỏi nhưng mà thi sĩ đang tự hỏi chính mình, tự trách chính mình sao xưa nay chẳng trở về với chốn cũ, người xưa để giờ đây trong cơn bạo bệnh lại chỉ còn những tiếc nuối, băn khoăn. Trong câu thơ chất chứa cả mỗi nỗi khát khao được trở về với Vĩ Dạ thân yêu.

Từ nỗi nhớ, bức tranh thôn Vĩ dần xuất hiện trước mắt người đọc qua từng lời thơ, một bức tranh Vĩ Dạ đầy lung linh, tươi đẹp và căng tràn sức sống:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Cau là loài cây dân dã cũng là vong linh của làng quê Việt Nam. Trong truyện cổ tích, trầu- cau gắn với tình yêu lứa đôi. Trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, câu gắn với nỗi nhớ, với vẻ đẹp của tự nhiên. Hình ảnh “nắng hàng cau” là một hình ảnh đẹp gợi vẻ tinh khôi, trong trẻo của những tia nắng sớm mai. Màu nắng hàng cau là màu nắng vô cùng mới mẻ nhưng mà trước Hàn Mặc tử chưa có thi nhân nào gợi ra được màu nắng đó. Những tàu cau được nắng mới bao trùm, nắng hòa vào hạt sương đọng trên phiến lá tạo nên vẻ long lanh tới kiều diễm. Tự nhiên trở thành thanh thoát, trong trẻo tới lạ lùng, ko gian trở thành cao ráo và đầy khoáng đạt. Ánh nắng hàng cau làm sáng bừng lên cả một khu vườn thơ mộng, hữu tình.

Phân tích bức tranh thiên nhiên Đây thôn Vĩ Dạ (9 Mẫu) - Văn 11

Bài văn Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất

Xa xa là bóng hàng cau, lúc lại gần, khu vườn càng thêm đẹp, thêm tươi. Có cây ngời ngợi màu xanh sáng, xanh trong, xanh mỡ màng, mượt nhưng mà:

“Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc”

Câu thơ cất lên như sự ngỡ ngàng tới xuýt xoa của tác giả trước vẻ đẹp của tạo hoá được tưới tắm bởi bàn tay khôn khéo của người làm vườn. Tính từ “mướt” gợi lên sắc xanh ngời ngợi, ngọc ngà, xuân sắc đầy sức sống của khu vườn. Có thể thấy qua những hình ảnh thơ thân thiện, bình dị nhưng mà bằng cách sử dụng ngôn từ lạ mắt, bức tranh thôn Vĩ đầy xinh xắn, sống động và cao quý được gợi lên.

Cảnh thôn Vĩ ngày càng trở thành hài hòa hơn lúc có sự xuất hiện của con người:

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Lối nói làm mới trình bày vẻ đẹp e ấp, kín đáo, dịu dàng và rất Huế của người con gái. Sự xuất hiện của khuôn mặt chữ điền phúc hậu, dịu dàng đã làm cho bức tranh Vĩ Dạ trở thành sinh động hơn lúc có sự hài hòa giữa cảnh vật và con người.

Khổ thơ thứ hai gợi ra cảnh sông nước êm đềm, mang nỗi niềm bâng khuâng, nỗi mong cầu hư ảo:

“Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ? “

Ko gian có gió, mây, sông nước, có thơ mộng, có êm đêm những gợi buồn, gợi chia ly. Cảnh chia đôi ngả “gió theo lối gió, mây đường mây” phải chăng chính là sự tự ti của thi sĩ về tình yêu xa cách, ko thể đồng hành cùng ý trung nhân của mình. Vì lòng người mang sau bi nên tự nhiên cũng vương buồn. Dòng sông nước vẫn chảy nhưng mà “buồn thiu”, gió xao động, hoa bắp lay trôi vô định trên làn nước. “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay” cảnh vật gợi vẽ quạnh quẽ, thê lương, u sầu. Dòng sông buồn như chính tâm trạng thi nhân.

“Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Tứ thơ “Có chở trăng về kịp tối nay?” gửi gắm cả một nỗi niềm của thi nhân, một khát khao vào tình yêu cập bến, để được cùng người tâm tình, tỏ bày. Nỗi trông ngóng, mong đợi, khát khao mãnh liệt được tâm giao được cất lên trong tiếng thơ bình dị. Có chăng, lúc này đây, tác giả đang lo sợ vì vận mệnh ngắn ngủi của cuộc đời mình. Sợ rằng thời kì ngày một ngắn thêm nhưng mà lòng người vẫn chưa thể được khỏa lấp nỗi trống vắng, lẻ loi, sầu muộn. Liệu con thuyền kia có chở kịp vầng trăng hạnh phúc đó về với kẻ mệnh bạc này ko?

Thực tại phũ phàng, lẻ loi ngập lối, tác giả đành tìm tới giấc mơ, nơi đó có thể nhìn thấy người con gái mình yêu, dẫu đó chỉ là chút hạnh phúc trong ảo giác:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn ko ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà?”

Trong giấc mơ mang màu kỳ vọng, thi nhân thấy vị khách đường xa trong tà áo trắng tinh khôi, ẩn hiện trong sương khói. Bóng hình như nhoè đi rồi mất tích trong phút chốc. Sự thanh khiết, cao quý của người con gái trong ảo giác khiến thi nhân ko khỏi ko lo sợ:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà?”

Trong lời thơ, tác giả phân vân, lo sợ về một tình cảm ko kiên cố. Một trái tim khát khao yêu và được yêu nhưng ko bao giờ có được tình yêu trọn vẹn khiến tác giả hoài nghi về tình cảm, về tình yêu của đối phương. Ko biết tình người có đặm đà như chính lòng ta chăng?

Bài thơ khép lại bằng một câu hỏi tư từ chất chứa nỗi niềm hoài nghi và thất vọng. Vĩ Dạ đẹp nhưng buồn, lòng người buồn nhưng mà đẹp, tất cả tạo nên sự hòa quyện giữa cảnh và tình.

Đây thôn Vĩ Dạ qua bao thế hệ người đọc vẫn mang một sức sống dạt dào. Bài thơ ko chỉ là một bức tranh êm đềm và tươi đẹp của Vĩ Dạ nhưng mà còn là bức tranh đẹp của một tấm lòng tha thiết với tự nhiên và khát khao được sống, được yêu của Hàn Mặc Tử.

5. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, mẫu số 6

Lúc được gọi tên cho Phong trào thơ mới, Đỗ Lai Thúy đã gọi đó là một “Cây nấm lạ trên gia hệ của văn mạch dân tộc”. Cái “lạ” của thơ mới, có người biết, có người chưa biết, nhưng cái “lạ” nhưng mà người thi sĩ Hàn Mặc Tử mang theo lúc bước vào làng thơ, thì hẳn người nào cũng rõ. Những vần thơ điên loạn với ngập tràn ý tượng của hồn, trăng, và máu đã ko thôi ám ảnh những người nào yêu thơ Hàn, đọc thơ Hàn. Nhưng chẳng người nào có thể tưởng tới giữa một rừng thơ ma quái và kì lạ đó, lại mọc lên một bông hoa trong sáng tinh khôi, còn vương bao hương sắc ở đời. Bông hoa đó Hàn đặt tên “Đây thôn Vĩ Dạ”, trong nó chứa chở bao xúc cảm và hoài nhớ về một miền quê từng gắn bó biết bao…

Thi phẩm chỉ vỏn vẹn ba khổ, nhưng là sự kết đọng của bao nhiêu nỗi nhớ, bao nhiêu khát khao, có cả bao nhiêu hoài nghi và vô vọng. Bài thơ gắn với chuyện tình giữa thi sĩ và người con gái Huế tên Hoàng Cúc. Giữa những ngày đớn đau nhất cuộc đời, chàng lại thu được bức ảnh sông nước xứ Huế đêm trăng, nhận thêm mấy dòng thư tín từ người con gái chàng từng thầm thương. Bao xúc cảm ùa về, cuộc hành hương trong tâm tưởng cũng từ đó, và những vần thơ hay nhất được gợi hứng từ xứ Huế mộng mơ đã bật trào trong nỗi nhớ…

Thi phẩm mở màn bằng một câu hỏi mang đầy ý vị của Huế mộng và Huế thơ. Ko phải là hàng loạt câu hỏi tự vấn đầy quằn quại và đớn đau như ta từng gặp:

Tôi vẫn ở đây hay ở đâu
Người nào đem bỏ tôi xuống trời sâu
Sao bông phượng nở trong màu huyết
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?

Câu hỏi cất lên ở đây vừa như một lời mời, một lời hỏi, lại như một lời trách móc, lời thở than: “Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?”. Là người con gái Huế hỏi chăng? Hay là Hàn tự phân thân ra hỏi mình? Dù là gì thì cái điều cốt nhất ta thấy được ở đây cũng chỉ là một niềm tha thiết, một nỗi xúc động của người thi sĩ lúc được trở về với mảnh đất nhiều kỉ niệm, dù chỉ là trong tâm tưởng. Câu thơ chơi vơi trong sáu thanh bằng và vút lên ở thanh cuối đủ gieo vào lòng người đọc những xúc cảm khó mờ. Là “ko về” chứ ko phải “chưa về”, là “về chơi” chứ ko phải “về thăm”. Nếu đọc cho kĩ, ngẫm cho sâu, ta sẽ thấy một câu thơ nhưng mà hàm ẩn bao ý niệm. “Chưa về” nghĩa rằng sẽ còn về được nữa, “về thăm” nghe thật xa lạ biết bao. Đứng ở tâm thế của một người con từng rất gắn bó với xứ Huế, Hàn đã dùng chính tiềm thức của mình để viết những câu thơ tiếp theo. Cảnh vườn thôn Vĩ xuất hiện, ngời ngời sắc xanh, long lanh ánh sáng:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Ấn tượng sâu nhất vương lại từ câu thơ chính là ko gian ngập tràn sắc nắng. Ko phải “nắng ửng” trong làn khói mơ tan, ko phải “nắng chang chang” dọc theo bờ sông trắng, nắng ở đây, là thứ “nắng mới”, ko huyền hồ ảo diệu, ko đậm màu đậm hương, nó tinh khôi và trong trẻo tới lạ. Nắng đổ xuống hàng cau, cau hướng lên hứng nắng nhẹ nhõm, một khu vườn mướt xanh được gội sạch bởi sương đêm, sáng sớm nay được đằm mình trong nắng mới. Cái “mướt” nhưng mà Hàn gọi dậy ở khu vườn, cái “ngọc” nhưng mà Hàn ví với màu xanh, chúng gợi ra bao nhiêu là sắc điệu. Vừa gợi màu nhưng mà vừa gợi ánh, vừa óng chuốt lại thật tinh khôi. Người ta ngỡ ngàng về một cảnh vườn thôn từng quen nay trong trẻo tới lạ.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ - Hàn Mặc Tử hay và chi tiết nhất

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Nhớ về thôn Vĩ còn là nhớ về những nét dáng thân yêu của con người nơi đây. Ko tả nhưng mà chỉ gợi, bằng văn pháp làm mới hóa, thi sĩ đủ cho ta cảm nhận về con người Huế sống động, dịu dàng, về con gái Huế đượm đà, nữ tính, nhấp nhoáng sau một mảnh trúc che ngang là gương mặt chữ điền rất Huế. Ta từng gặp hình dáng đó trong câu thơ của Bích Khê:

Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn
Biếc che cần trúc ko buồn nhưng mà say.

Những nét vẽ thanh tao, những cảm nhận tinh tế, chúng gọi dậy một hồn thơ thánh thiện, nặng tình nặng nỗi với một mảnh đất thân yêu. Tìm đâu xa tình yêu quê hương xứ sở, thỉnh thoảng niềm thương tính từ lúc những ấn tượng ngọt ngào quá đỗi phổ biến như thế. Hóa ra, ko chỉ Hoàng Phủ, ko chỉ Trịnh Công Sơn mới viết hay về Huế. Hàn cũng góp cho Huế mấy vần thơ thật chân tình đượm nồng những mến thương…

Nhưng liệu có phải sẽ thật thiếu sót lúc nhắc về Huế nhưng mà quên mất cảnh sông nước đêm trăng vốn đã thành mảnh hồn riêng nơi đây? Bắt trọn được cái hồn riêng đó, thi sĩ đã kéo cái nhìn của người đọc sang một miền ko gian khác, chơi vơi giữa phong vân, lặng mình theo dòng nước:

Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Một bức tranh gợi buồn, gợi sầu. Gió nhẹ thổi, mây nhẹ trôi, hoa bắp nhẹ lay, dòng Hương giang trầm ngâm. Cái dáng Huế qua mấy mươi thế kỉ cơ hồ cũng chỉ có thế. Ko khí trầm tịch của đất cố đô được gợi lại chỉ qua mấy nét chấm phá.

Nhưng hãy thử đọc kĩ, và nhìn đằng sau câu thơ xem còn bao nhiêu nét nghĩa nữa. Quả vậy, đây ko chỉ là một bức tranh ngoại cảnh, nó là tranh tâm trạng, là điệu tâm hồn. Cứ nghe cái điều ngang trái trong câu thơ là rõ. Lẽ thường gió thổi mây bay, ở đây phong vân đôi ngả, xa cách như không thể chung đường. Cảnh đã được nội tâm hóa, thấm đượm sự chia li. Tới nỗi nhưng mà, cái buồn đã được gọi thành tên: “buồn thiu”. Hai chữ “buồn thiu” đã gói trọn nỗi đau buồn của con người, của mối trần duyên tê tái. Nhấp nhoáng nơi đó câu dân ca thuở nào:

Người nào về Giồng Dứa qua truông
Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em?

Nhưng ko biết vì nỗi buồn đã choán ngập tâm hồn, hay vì nhớ mong ko thể làm chủ, nhưng mà ngay hai câu thơ sau, cảnh trở thành thật hư kì ảo hồ:

Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Thuyền, trăng, bờ bãi vốn ko phải lần đầu đồng hiện. Thơ xưa từng có người nào viết:

Nước biếc non xanh thành gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạch khách lên lầu.

Nhưng cái khác lạ ở đây là, thi sĩ ko đứng đó nhưng mà ngắm trăng hay ngắm sông, người đang chìm dần trong cảm giác ảo hóa. Trăng xuất hiện trở lại, nhưng ko phải “trăng vàng trăng ngọc”, “trăng nằm sóng soãi”, nhưng mà là trăng huyền hồ tan trên mặt nước. Trong cảm giác mung lung của thi nhân, sông trở thành sông trăng, thuyền trở thành thuyền trăng, bóng người cũng trở thành hình người nào nhấp nhoáng, mờ nhòa trong trăng. Tất cả ngập một màu trăng. Trăng ở đây mang chở nỗi niềm khắc khoải, lo lắng, nuối tiếc trước nỗi đau sắp phải xa lìa thực tại.Sự phấp phỏm âu lo và những mong được níu giữ thời kì đó hiện lên rõ nhất ở chữ “kịp” và câu hỏi đầy tội nghiệp kia. Ta nhìn thấy ở đây một cuộc chạy đua với thời kì, thời kì đang dồn đuổi từng bước, nhưng chạy đua ko phải để tận hưởng tối đa thanh sắc cuộc đời như mong muốn của Xuân Diệu, nhưng mà chỉ mong tận hưởng cái tối thiểu – đó là được sống. Được sống ko thôi đã thỏa nguyện rồi. Trong câu thơ là bao nhiêu sự âu lo, cũng là bấy nhiêu niềm khát khao. Nhân văn của thi hẩm cũng là ở đó: Hãy luôn sống trọn từng ngày lúc còn đang được sống.

Niềm khát khao tình đời, tình người của thi nhân cất lên rõ nhất ở khổ thơ thứ ba, trong khi toàn cầu đã về với thực tại, ngập chìm hoàn toàn ở cõi mơ:

Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn ko ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đâm đà?

Chữ “mơ” đặt ở đầu, chơi vơi sau đó là tiếng gọi “khách đường xa” đầy khắc khoải, mang theo sự chơ vơ hụt hẫng, bỏ lại bao ngơ ngẩn buồn tiếc. Hình ảnh khách thể xuất hiện trở lại, ngỡ như cứ bước xa dần khỏi vòng tay Hàn, đi về một cõi xa xăm ko thể chạm tới. Người con gái mang sắc áo trắng tuyệt đối, trinh nguyên vô ngần, suốt đời Hàn tôn sùng nay lại trở thành mờ nhòa, khó giữ. Tất cả như mờ ảo hơn:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ko gian mung lung, lạnh lẽo, mịt mùng trong sương khói, huyền hồ trong ảo giác. Nó choán trùm lên cả ý thức và tiềm thức, thắt buộc lòng người tới tê dại. Nghe câu hỏi khắc khoải cuối cùng: “Người nào biết tình người nào có đặm đà?”, ta thảng thốt nhìn thấy, hóa ra xưa nay người thi sĩ cũng chỉ mong đợi điều đó, khát khao điều đó, đó là tình người, tình đời. Đời thi sĩ sống đã vốn chẳng được vui, tới cuối đời cũng chỉ mong tìm được mảnh hồn tri ngộ. Hàn Mặc Tử của chúng ta, ko “kì lạ” như bao người nói. Chàng có trái tim rất người, có những tình cảm rất người, nhưng mà có nhẽ tới nhiều năm sau này vẫn có ko ít người ghi nhận điều đó.

Bài thơ như một khúc đoản ca về tình yêu và niềm khát khao, hướng về một mảnh vườn, cũng là hướng về một mảnh đời. Rực rỡ của thi phẩm còn được tạo nên ở những nghệ thuật mang sở thích riêng của Hàn Mặc Tử. Với những hình ảnh tượng trưng đầy hàm nghĩa, với nhưng câu hỏi tu từ trải đều trên các khổ thơ mang thoe ý niệm riêng, cùng lối viết làm mới hóa, pha lồng ảo thực, “Đây thôn Vĩ Dạ” xứng là một thi phẩm có những thi từ đẹp nhất, trong sáng nhất.

“Tương lai, những thứ tầm thường mực thước sẽ mất tích đi, và còn lại của thời kì này một tí gì đáng kể, thì đó là Hàn Mặc Tử”. Lời trân trọng nhưng mà người bạn thơ Chế Lan Viên gửi cho Hàn đã nói thay về những gì Hàn để lại cho đời. Mãi mãi là như thế…

Trên đây là 5 bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, bạn có thích thú bài thơ này? cảm nhận của bạn về bài thơ này ra sao, hãy cùng san sẻ với chúng tôi qua các bình luận dưới bài viết nhé.

6. Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 7

Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn dạt dào mến thương đã bật lên những tiếng thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc đời. Những phút giây xót và sung sướng, những phút giây nhưng mà ông đã thả hồn mình vào tronq thơ, những phút giây ông đã chắc lọc, đã thăng hoa từ nỗi đau của tâm hồn mình để viết lên những bài thơ tuyệt bút. Và bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ đã được ra đời ngay trong những phút giây tuyệt diệu đó. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng đã hòa quyện với tự nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung hồn thơ vẫn đượm vẻ đau buồn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu thiết tha man mác, đượm vẻ u buồn ẩn hiện giữa quang cảnh tự nhiên hoà vào lòng người, cái thực và mộng, huyền ảo và cụ thể hoà vào nhau.

Mở bài đầu thơ là một lời trách móc nhẹ nhõm của nhân vật trữ tình.

Sao anh ko về chơi thôn Vĩ.

Chỉ một câu hỏi thôi! Một câu hỏi của cô gái thôn Vĩ nhưng chứa chan bao mến thương mong đợi. Câu thơ vừa có ý trách móc vừa có ý tiếc nuối của cô gái đối với người yêu vì đã bỏ qua được chiêm ngưỡng vẻ đẹp mặn nhưng mà, ấm áp tình quê của thôn Vĩ – vùng nông thôn ngoại thành xinh xẻo thơ mộng, một phương diện của cảnh Huế.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của thôn Vĩ:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Nét rực rỡ của thôn Vĩ – quê hương người con gái gợi mở ở câu đầu liên đây đã được tả rõ nét. Một bức tranh tự nhiên tuyệt tác rộng mở trước mắt người đọc. Hình ảnh nắng tưới lên trên ngọn cau tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Nắng mới là nắng sớm mở màn của một ngày, những hàng cau cao vút vươn mình đón lấy những lia nắng sớm kia, và tất cả tràn trề ánh nắng và buổi rạng đông. Cái nắng hàng cau nắng mới lên sao lại gợi một nỗi niềm làng quê hương tới thế. Câu thơ này tự dưng khiến ta nghĩ tới những câu thơ Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng.

Cảm nhận bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử (dàn ý + 8 mẫu)

Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh dịu Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh.

Nắng mới cũng còn có ý tức là nắng của mùa xuân, mở đầu cho một năm mới nên bao giờ nó cũng bừng lên rực rõ nồng nàn. Đó là những tia nắng trước hết rọi xuống làng quê nhưng mà trước nó chiếu vào những vườn cau làm cho những hạt sương đêm đọng lại sáng lên, nhấp nhánh như những viên ngọc được dính vào chiếc choàng nhung xanh mịn:

Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc

Cái nhìn như chạm khẽ vào sắc màu của sự vật để rồi bật lên một sự ngạc nhiên đên thờ thẫn. Tới câu thơ này, ta bắt gặp cái nhìn của thi nhân đã hạ xuống thấp hơn và bao quát ở chiều rộng. Một khoảng xanh của vườn tược xuất hiện, nhắm mắt nhắm mũi lại ta cũng tưởng tượng ra ngay cái màu xanh mượt nhưng mà, mỡ màng của vườn cây. Ta ko chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp nhưng mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây được sương đêm tẩy rửa trở thành cành lá ngọc. Ko phải xanh mượt, cũng ko phải xanh mỡ màng nhưng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp ngồn ngộn, sự sống của vườn tược. Một màu xanh cao quí, nhấp nhánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong luồng ko khí đang còn run rẩy sự trinh trắng sơ khai chưa hề nhuốm bụi. Lăng kính ko khí đó làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc nhưng mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu ko có một tình yêu sâu nặng nồng nàn đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử ko thể có được những vần thơ trong trẻo tương tự. Người nào từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc trưng ở xứ Huế thì mới thấm thìa những vần thơ này:

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Trong vườn thôn Vĩ Dạ kia, nhành lá trúc và khuôn mặt chữ điền sao lại có mối liên quan bất thần nhưng mà đẹp thế: những chiếc lá trúc thanh mảnh, thon thả che ngang gương mặt chữ điền. Mặt chữ điền – khuôn mặt đó càng xuất hiện nhấp nhoáng sau lá trúc mơ mòng, hư hư thực thực.

Thôn Vĩ Dạ nằm cảnh ngay bờ sông Hương êm đềm. Vì thế nhưng mà từ cách tả cảnh làng quê ở khổ thơ đầu hé mở tình yêu, tác giả chuyển sang tả cảnh sông với niềm bâng khuâng, nỗi nhớ mong sầu muộn hư ảo nhưưong giấc mộng:

Gió theo lối phong vân đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?

Gió và mây để gợi buồn vì nó trôi nổi, lang thang thì nay lại càng buồn hơn gió đi theo đường gió, mây đi theo đường mây, gió và mây xa nhau; ko thể là bạn đồng hành, ko thể gặp mặt và sự xa cách của thi sĩ đối với người yêu có thể là vĩnh viễn. Phải chăng đây là cảm giác của thi sĩ trong xa cách thương nhớ, và đây cũng là tự ti của những con người xưa trong cuộc sống. Nỗi buồn về sự chia li, tiễn biệt đọng lại trong lòng người phảng phất buồn và mang một nỗi niềm xao xác. Chúng ta ko còn thấy giọng tươi mát đầy sức sống ở đoạn trước nữa, chúng ta gặp lại Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau buồn, u uất:

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Dòng sông Hương xuất hiện mới buồn làm sao với những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, âm u như màu khói. Với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr thì dòng sông trôi lững lờ của xứ Huế chỉ là dòng sông buồn thiu gợi cảm giác buồn lặng, quạnh quẽ. Hoa hắp cũng lay nhè nhẹ trong một nỗi buồn xa vắng. Sự thay đổi tâm trạng chính là thái độ của những người sông trong vòng đời tối lăm, thất vọng. Mặt nước sông Hương êm quá gợi tới những bế bờ xa vắng, những mảnh bèo trôi dạt lênh đênh của số kiếp người. Tâm trạng thoắt vui – thoắt buồn nhưng mà buồn thì nhiều hơn, ta đã gặp rất nhiều ở các thi sĩ lãng mạng khác sống cùng với thời Hàn Mặc Tử. Ý thơ thật buồn, được tiếp nối trong hai câu sau nhưng với cách diễn tả, thật tuyệt diệu, thực đấy nhưng mà mộng đấy:

Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Cỏ chở trăng về kịp tối nay?

Tất cả như tan loãng trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử. Cảnh vật tự nhiên tràn trề ánh sáng, một ánh trăng vàng sáng nhoáng chiếu xuống dòng sông, làm cho cả dòng sông và những bãi bồi lung linh, huyền ảo. Cảnh nên thơ quá, thơ mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn thiu đã hoá thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã gửi gắm một tình yêu khát khao, nỗi trông ngóng, mong nhớ vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ lồng trong tiếng nói thơ thật là tài tình, thật là đẹp với xứ Huế mộng mơ. Tác giả đã lướt bút viết nên những câu thơ nhẹ nhõm, sâu kín nhưng hàm chứa cả tình yêu rộng lớn, nồng thắm tới vô cùng. Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng nguyên vẹn của thi nhân trước mảnh tình yêu chưa bị phôi pha. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng ở các hài thơ khác ko giống thế này. Một ánh trăng gắt gao, kì quái, một ánh trăng khêu gởi, lơi lả:

Gió tít tầng cao trăng té ngửa
Vờ tan thành vũng đọng vàng kho.

Hay:

Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lơi lả.

Trăng trở thành một khí quyển xung quanh mọi cảm giác, mọi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử, hơn nữa nó còn lẫn vào thể xác ông. Nó là ông là trời đất, là người ta. Trăng trở thành vô lường trong thơ ông, lúc hữu thể lúc vô hình, lúc mê hoặc lúc kinh hoàng:

Thuyền người nào đậu đên sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tôi nay?

Vầng trăng ở đây phải chăng là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền ko kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ niềm lo lắng của một số phận ko có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu căn bệnh của mình nên ông tự ti về thời kì cuộc đời ngắn ngủi, vầng trăng ko về kịp và Hàn Mặc Tử cũng ko đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông vĩnh biệt cuộc đời.

Nhưng hiện nay, con người đang sống và đang tiếp tục giấc mơ:

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo trắng quá nhìn ko ra;
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà ?

Trái tim khao khái mến thương, những nỗi đau kỉ niệm tình yêu đó, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và rồi tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hi vọng. Màu áo trắng cũng là màu ánh nắng của Vĩ Dạ nhưng mà nhìn vào đó tác giả choáng ngợp, thấy ngây ngất trước sự trong trắng, thanh khiết, cao quý của người yêu.

Hình như giữa những mĩ nhân áo trắng đó với thi nhân có một khoảng cách nào đó khiến thi nhân ko khỏi ko nghi ngờ:

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà?

Câu thơ đã tả thực cảnh Huế – kinh thành sương khói. Trong màn sương khói đó con người như nhoà đi và có thể tình người cũng nhoà đi? Thi sĩ ko tả cảnh nhưng mà tả tâm trạng mình, biết bao tình cảm trong câu thơ đó. Những cô gái Huế kín đáo quá, ẩn hiện trong sương khói, trở thành xa vời quá, liệu lúc họ yêu họ có đặm đà chăng? Tác giả đâu dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Người nào biết tình người nào có đặm đà ?

Lời thơ như nhắc nhở, ko phải bộc lộ một sự vô vọng hay kỳ vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khát khao mến thương nhưng mà ko bao giờ và mãi mãi ko có tình yêu trọn vẹn. Đọc, phân tích Đây thôn Vĩ Dạ, người đọc càng thấy hay, ngậm ngùi, thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ người nào mở đầu: Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc; tiếp tới Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó; và kết thúc là Người nào biết tình người nào có đặm đà? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, kì bí hơn.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh người và người của miền tổ quốc qua tâm hồn giàu tưởng tượng và đầy mến thương của thi sĩ với nghe thuật gợi liên tưởng, hoà quyện tự nhiên với lòng người.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên sốt dẻo, lay động day dứt lòng người đọc.

7. Phân tích tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 8

“Người nào sắm trăng tôi bán trăng cho
Ko bán đoàn viên, ước hò hẹn.”

Nhắc tới những dòng thơ này, người đọc chắc hẳn ko còn xa lạ gì với hình ảnh “bán trăng” của Hàn Mạc Tử. Một sự nghịch lí, lạ lùng vì trăng cũng là chung cũng là của riêng mọi người, hà cớ sao lại “bán”. Thế nhưng, từ hình ảnh này người ta mới thấy tấm lòng thủy chung, son sắt của thi sĩ. Và một lần nữa sự thủy chung đó lại được tái tạo qua “Đây thôn Vĩ Dạ”. Tác phẩm ko những là bức tranh thủy mặc về một vùng của cố đô Huế nhưng mà nó còn là nỗi lòng gửi tới phương xa của thi sĩ Hàn Mạc Tử.

Mở đầu bài thơ, ko phải là lời chào nhưng mà là lời trách móc: “Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?”. Giọng điệu mang tính hỏi han, trách móc nhân vật trữ tình sao ko về với thôn Vĩ, về với những kỉ niệm. Câu thơ còn nói lên sự tiếc nuối lúc nhân vật trữ tình ko thể chiêm ngưỡng được hết vẻ đẹp thôn Vĩ.

Sự tiếc nuối của người con gái đã nhắc tới âu cũng có căn cứ vì với một loạt “vẻ đẹp” sau đây thì dù người nào bỏ qua chuyến về đều phải luyến tiếc.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn người nào mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ba câu thơ này đã bước đầu khắc họa bức tranh quê hương thôn Vĩ với vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết. Ở câu thơ thứ hai tác giả khôn khéo dùng biệp pháp điệp từ “nắng”. Nếu như “nắng” ở vế đầu chỉ vị trí nó xuất hiện (nắng trên hàng cau) thì “nắng” ở vế sau lại nói về tính chất (nắng mới). Quang cảnh ở thôn Vĩ xuất hiện trước mắt người đọc là vẻ đẹp vườn tược, vẻ đẹp vùng nông thôn ngoại thành thị thành. Hàng cau chính là hình ảnh tiêu biểu nhất cho vườn tược chốn Thừa Thiên, nhưng tác giả khôn khéo hơn lúc lồng vào hình ảnh này là một “gia vị” đậm chất Huế. Cái nắng ở đây xuất hiện với tính chất – mới. “Nắng mới” có thể hiểu là nắng buổi sáng, ánh nắng mở màn cho ngày mới. Nhưng ánh nắng này ko chỉ mở màn cho một ngày nhưng mà còn khởi đầu cho một mùa xuân tươi trẻ. “Nắng mới” đi kèm với động từ “lên” tạo cảm giác tươi trẻ, tràn đầy sức sống và thi sĩ chính là người may mắn lúc được chiêm ngưỡng khoảnh khắc này. Từ đó cho thấy sức sống căng tràn đang lan tỏa khắp miền quê thôn Vĩ.

Phân tích khổ 1 Đây Thôn Vĩ Dạ Hàn Mặc Tử

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mới nhất

Từ ánh nhìn “nắng hàng cau”, tác giả đã chuyển qua quan sát “nhân vật” khác là vườn thôn Vĩ. Có thể thấy từ câu thơ này, góc nhìn của tác giả đã có sự dịch chuyển. “Vườn” hiện lên gần hơn, tầm nhìn của thi sĩ rất gần. Nghệ thuật tu từ “vườn người nào” gợi lên sự tò mò, hiếu kì vì ko xác định chủ sở hữu khu vườn này là người nào. Nhưng cái người ta quan tâm ko phải là tính danh người chủ khu vườn, nhưng mà quan trọng nhưng mà sự trong xanh của nó. Tác giả so sánh vườn với ngọc để cho thấy sự trong xanh, tinh khiết của khu vườn vào buổi sáng sớm mai. Quan sát hình ảnh này người đọc tự nhiên có cảm giác nhẹ nhõm, thoải mái, cơ mắt cũng thực sự được thư giãn. Tuy nhiên, tài năng của Hàn Mạc Tử ko thuần tuý chỉ có thế. Tác giả khéo “tặng” chữ “mướt” lúc mô tả màu sắc khu vườn. Từ này tạo cho người đọc cảm giác về sự trơn tuột, tròn trịa và thêm phần mịn màng. Đã thế nó còn đi kèm với thán từ “quá” làm cho vườn tược của thôn Vĩ thêm phần thanh tao. Làm người đọc tò mò muốn được nhìn thấy một lần. Nếu như câu hai, câu ba giúp chúng ta có cái nhìn bao quát về tự nhiên xứ Huế thì tới câu thứ tư thi sĩ đã giới thiệu về con người nơi đây. Hình ảnh “mặt chữ điền” chỉ về khuôn mặt phúc hậu, hiền từ và đây cũng là cách tác giả giới thiệu về tính cách con gái Huế. Ẩn mình sau nét đẹp đó là cụ thể “lá trúc che ngang” gợi lên sự e ấp, ngại ngùng của cô gái xứ mộng mơ. Tương tự chỉ với khổ thơ đầu người đọc đã có cái nhìn trước hết về quang cảnh thôn Vĩ. Mảnh đất ở đây ko chỉ hiện lên với vẻ đẹp tinh túy nhưng mà con người cũng rực rỡ muôn phần.

Tới với khổ thơ hai, độc giả tiếp tục chứng kiến những đường nét nhưng mà “thi sĩ” vẽ nên. Bức tranh đó đã mở rộng cả về ko gian lẫn thời kì.

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay…
Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?

Mở đầu khổ hai, Hàn Mạc Tử mở rộng ko gian thôn Vĩ bằng hình ảnh từ trên cao. Ở đây tác giả rất tinh tế lúc sử dụng biệp pháp điệp cấu trúc câu và điệp từ đồng thời với nhau. “Gió” và “mây” được nhấn mạnh hai lần nhưng ko phải cảm giác gắn bó, mật thiết nhưng mà là sự chia li. Vì gió đi lối riêng, mây lại có đường khác. Nếu như câu đầu tác giả nói về sự chia li nhưng bằng cách gián tiếp thì câu tiếp theo thi sĩ đã nhấn mạnh cảnh vật với tâm trạng thảm sầu bằng động từ “buồn thiu”. “Buồn thiu” là tâm trạng thảm sầu pha chút lẻ loi. Và nhân vật mang tâm trạng này là “dòng nước”. Bằng thủ thuật nhân hóa, tác giả đã ví dòng nước thôn Vĩ như một sinh vật có suy nghĩ, có tâm trạng. Cảnh vật chuyển mình mạnh mẽ từ tươi tỉnh lúc sớm mai và lại mang nét hoài cổ vào thời khắc này. “Hoa bắp lay” có thể là một sự rung rinh lúc có đợt gió đi qua làm rõ hơn sự buồn chán, lẻ loi. Ko gian đang ở trên cao liền được kéo xuống dưới thấp làm cho hình ảnh thêm phần sinh động . Ý đồ của tác giả thực sự xuất sắc lúc để cho cái buồn của tự nhiên xuất hiện trước, làm người đọc tò mò, suy nghĩ rồi tác giả mới đưa ra cái trầm tư của con người.

“Thuyền người nào đậu bến sông Trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Nếu như câu hỏi tu từ ở khổ thơ trước hết mang nét trách móc thì ở khổ này lại đượm buồn và có chút xót xa. Xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “thuyền”, “bến” cùng với hình ảnh “sông Trăng”. Sông Hương hiện thời đã nhuốm đầy ánh trăng, làm cho cả một vùng sông tràn trề ánh vàng. Câu hỏi cuối khổ thơ như thể chính tác giả đang hỏi bản thân. Câu thơ đã bộc lộ nỗi niềm lo lắng lúc trong hoàn cảnh này tác giả đang mang trong mình căn bệnh quái ác. Và liệu thi sĩ có đủ thời kì để chờ vầng trăng đó về kịp. Câu hỏi làm cho cả khổ thơ chùng xuống hẳn! Thi sĩ buồn cho cái số phận ngắn ngủi, cho ước mơ vẫn còn dở dang.

Đành là vậy! Như lúc tới khổ thơ thứ ba tác giả tiếp tục sống cho mộng ước của mình

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn ko ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà”

Lần này tác giả sống trong mộng tưởng của mình. Hình ảnh khách đường xa nhấn mạnh hai lần đã nói lên phần nào nỗi trông ngóng, thương nhớ của tác giả dành cho ý trung nhân. Theo một số tư liệu thì lúc làm viên chức ở Quy Nhơn, Hàn Mạc Tử có thầm thương trộm nhớ cô gái Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời kì sau, thi sĩ vào Sài Gòn làm báo, lúc trở lại Quy Nhơn thì gia đình cô Cúc đã về lại Vĩ Dạ (Huế). Trong thời kì thi sĩ bạo bệnh, được sự gợi ý của người bạn, cô Cúc đã gửi cho thi sĩ bức ảnh chụp cảnh cô mặc áo dài trắng cùng với đó là hình ảnh sông, nước, bến, thuyền. Thu được bức ảnh đó, thi sĩ đã rất vui. Cũng chính vì thế nhưng mà hình ảnh “áo em trắng quá” có thể bắt nguồn từ tà áo trắng nhưng mà cô Hoàng Thị Kim Cúc đã chụp. Tuy nhiên, cái màu trắng đó lại “nhìn ko ra”. Có một số giả thiết cho rằng lúc tác giả mắc bệnh thì con mắt đã kém đi nên nhìn mọi vật có thể ko rõ. Vậy nên màu trắng này có phải là sự xa lạ hay cái nhìn đã phần giảm xuống?

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Người nào biết tình người nào có đặm đà”

Câu thơ thứ ba của khổ cuối đã mô tả đúng cái ko gian của xứ Huế. Với vùng quê được xung quanh bởi sương và khói, màu trắng đó đã làm mờ đi mọi thứ kể cả “nhân ảnh”. Con người dường như cũng bị khuất lấp sau màn sương đó. Cảm giác vừa thực vừa ảo, như thể tác giả đang lạc vào toàn cầu thần bí nhưng mà ở đó mọi vật đều khó hiện rõ nét sau “tấm rèm trắng”. Và có nhẽ ý tứ, tình cảm của tác giả lại được gói ghém ở câu thơ cuối cùng. Tiếp tục là một câu hỏi tu từ “Người nào biết tình người nào có đặm đà?”. Thi sĩ hỏi người nhưng mà cũng giống như hỏi mình liệu tình cảm đó còn “đặm đà”, son sắt như ngày xưa. Liệu cố tri có còn giữ tình cảm xưa cũ. Đọc câu thơ này, độc giả sẽ ko biết nhân vật hỏi và được hỏi sẽ là người nào. Thế nhưng cái người ta để tâm là tình cảm đó có trường tồn, và lòng người có còn giữ chút niềm tây. Tất cả đều là một ẩn số!

Bằng cách sử dụng các giải pháp nghệ thuật một cách xuất sắc và linh hoạt như giải pháp điệp từ, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ… người đọc đã có dịp chứng kiến cây bút tài hoa vẽ nên những đường nét mềm mại của bức tranh chốn Thừa Thiên một cách sinh động và có hồn nhất.

Với bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” Hàn Mạc Tử đã đưa độc giả tới với ko gian xứ Huế mộng mơ nhưng mà cụ thể là cảnh thôn Vĩ Dạ. Với một quang cảnh trữ tình, nên thơ cùng với tình yêu tha thiết, nhớ mong tác giả đã thổ lộ tình cảm của mình với người con gái Huế nhưng mà tác giả thầm đơn phương. Tình cảm đó son sắt, thủy chung nhưng lại phấp phỏng, lo lắng về “người cũ” có còn giữ nỗi niềm xưa. Tình cảm đó còn đọng mãi và trở thành một câu hỏi ko nguôi trong lòng tác giả và cho cả người đọc.

8. Phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ, mẫu số 9

Bài thơ đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên do rất đặc trưng. Lúc Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng hy vọng những phút giây tới với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì thi sĩ đã bất thần thu được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh đó có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để xoa dịu thi sĩ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người phổ biến tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho thi sĩ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế nhưng mà, tuyệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã ra đời.

Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

“Sao anh ko về chơi thôn Vĩ?”

Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn trình bày nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì ko có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy mến thương đó chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành nhạc điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai chúng ta hết sức bất thần vì lời mới vừa cất lên thì ngay ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở ko gian thôn Vĩ Dạ. Rõ ràng đây là một cuộc hành trình trong tiềm thức.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Một cái nắng được phát hiện được mô tả “nhìn nắng hàng cau” và một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến thi sĩ phải xuýt xoa reo lên như trẻ em “nắng mới lên”. Đây ko phải là thứ nắng của mặt trời nhưng mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi rạng đông. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước tới nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa tới gần. Người du khách thấy được nắng hàng cau và càng tới gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tiềm thức thì ko nhất quyết phải có một cuộc dạo chơi tương tự. Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Thi sĩ đang xé toạt vòm trời đen để nhìn thấy rạng đông nắng mới kì diệu thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Ko gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tiềm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn Vĩ.

Dàn bài phân tích bài thơ Đây thôn vĩ dạ – Hàn Mặc Tử hay và đủ ý!

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, văn mẫu 12

“Vườn người nào mướt qua xanh như ngọc” Câu thơ có tới hai lần xuýt xoa, ngạc nhiên. Đã “vườn người nào mướt quá” lại còn phát xuất hiện cái “mướt quá” đó là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó ko chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác nhưng mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu không giống nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn người nào” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn đó thì rất hợp pháp. Nhưng thi sĩ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể ko xấu nhưng nhất mực đó là gương mặt ko theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam lúc thẩm định phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, toàn cầu kì lạ. Việc thi sĩ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất rộng rãi. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế. Thi sĩ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một thi sĩ đa tình phong túc thời còn ở Huế. Nói đúng ra là thi sĩ muốn quên mình trong hiện nay với căn bệnh hiểm nghèo để đươc yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng hỗ trợ cho gương mặt chữ điền đó những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu thị cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho chúng ta ấn tượng vè buổi chiều ở một ko gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đó là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn trề ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.

“Gió theo lối gió, mây đường mây”

Câu thơ thứ hai ko chỉ là nghịch lí nhưng mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng giò để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng kế bên nhau nhưng mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng tới khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan tành chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. Đó là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hứa hẹn ước, làm tan tành trái tim của kẻ mến thương tin tường dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử lúc thì mời đón dành sẵn một toàn cầu mến thương hy vọng, lúc thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất thần con người đó bỗng dung xuất hiện thật nhân hậu và khoan thứ.

“Thuyền người nào đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn thuở là biểu tượng của hạnh phúc, đặc trưng là hạnh phúc lứa đôi. Quá khát khao hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn trề ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật “người nào” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người đó đang cắm thuyền ở bến sông để hy vọng lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho thi sĩ tối nay. Đó là sự mến thương cao cả, là sự thấu hiểu tới tường tận những khát khao của Hàn Mặc Tử. Thế nhưng chữ “kịp” ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể ko còn kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời kì ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc tới cho thi sĩ nhưng nếu tới trễ thì hạnh phúc đó thật vô nghĩa.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa”

Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc trưng. Khách vốn đã xa lạ nhưng mà thi sĩ còn lặp tới hai lần sự xa lạ đó “khách đường xa, khách đường xa”. Thế nhưng mà, lại có một giấc mơ về người khách ko quen đó. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng thi sĩ hiểu rằng người đó ngoài tầm tay với của mình. Con người đó càng lúc càng trở thành xa lạ và càng ko níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm tình này qua những vần thơ khác của Hàn:

“Người đã đi rồi khôn níu lại
Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa
Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi tới dại khờ”.

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những phút giây cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Lúc đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó thi sĩ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi đợi mong ánh trăng hạnh phúc tới cho mình. Tiếp theo, Hàn Mặc Tử vô vọng nhìn người yêu mình như “khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đó, thi sĩ thấy người đó quay trở lại với mình, cô gái đó hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị, thân thiện biết bao:

“Áo em trắng quá nhìn ko ra”

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự vô vọng. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng ko nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh ko dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao… Tự ti lúc mến thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi tự ti như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân hậu cuộc đời riêng. Thi sĩ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế nhưng mà dù nhân vật “em” trở lại với mình, thi sĩ cũng ko dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình.

Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh:

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”

Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

“Con quay búng sẵn lên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng ko thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ ko thể là chính người đó. Hàn Mặc Tử cũng vậy, thi sĩ hiểu rằng mình ko chủ động được với chính mình, mình ko thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu. Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… Đó là một nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân làm cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi chơ vơ vô vọng ko có chỗ nào để bám víu:

“Người nào biết tình người nào có đặm đà?”

Hai đại từ “người nào” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: ko biết em có hiểu được chính tình yêu của em đặm đà hay ko? Ko biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đặm đà ko? Liệu em có biết tình anh đặm đà ko? Liệu anh có biết tình em có đặm đà ko? Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng vô vọng. Càng tha thiết một tình yêu đặm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự tan vỡ vô vọng với tình yêu. Vì thế nhưng mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu vô vọng.

Mọi sự vô vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu vô vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta trị giá nhân văn cao cả. Thi sĩ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu vô vọng. Chúng ta ko gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên chúng ta cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Tổng kết

Trên đây là top những mầu bài phân tích về tác phẩm Đây thôn vĩ dạ của nhà Thơ Hàn Mặc Tử giúp bạn đạt điểm cao nhất, được Bảng Xếp Hạng tổng hợp gửi tới các bạn học sinh. Hy vọng với những thông tin bài viết trên đây sẽ giúp bạn có những mẫu bài văn đạt điểm tuyệt đối nhất. Truy cập bangxephang.com thường xuyên để cập nhật thêm nhiều tin tức mới mỗi ngày nhé.

Hãy Đánh Giá post