Lý giải vì sao dưới thời lý nhiều chùa được xây dựng

Vì sao dưới thời Lý nhiều chùa được xây dựng – ”Phật giáo thời Lý đã đóng góp vào việc tạo ra nền văn minh Đại Việt thịnh trị trong hơn hai thế kỷ. Bởi vì về cả phương diện tinh thần và phương diện vật chất, ảnh hưởng của Phật giáo giai đoạn này là quá rõ trên toàn bộ các hoạt động trong nước…”. Cùng Bangxephang tìm hiểu nhé.

Bạn có thể xem thêm Tổng hợp Code Anime Adventures mới nhất 12/2022 và cách nhập code

Thời Lý, chùa được dùng vào việc gì?

Chùa là địa điểm tu hành của các nhà sư cũng như địa điểm tổ chức lễ bái của đạo Phật. Chùa còn là trung tâm văn hoá của các làng xã.

vì sao dưới thời Lý nhiều chùa được xây dựng?

-Vì lúc bấy giờ, đạo phật được truyền bá rộng rãi trong cả nước. Các vua thời Lý đều theo đạo phật, nhân dân nhiều người cũng theo đạo Phật.

-Chùa được xây dựng ở khắp kinh thành, làng, xã để làm nơi nơi tu hành của các nhà sư cũng như địa điểm tổ chức lễ bái của đạo Phật.

-Chùa còn là trung tâm văn hoá của các làng xã.

Vai trò của Phật giáo thời Lý và sự tăng trưởng văn minh Đại Việt

”Phật giáo thời Lý đã đóng góp vào việc tạo ra nền văn minh Đại Việt thịnh trị trong hơn hai thế kỷ. Bởi vì về cả phương diện tinh thần và phương diện vật chất, ảnh hưởng của Phật giáo giai đoạn này là quá rõ trên toàn bộ các hoạt động trong nước…”.

1. Sự xuất hiện Phật giáo ở Việt Nam

Phật giáo là một trong những tôn giáo lớn trên toàn cầu du nhập vào Việt Nam từ lâu. Theo nguồn sử liệu cũ từ thời Lạc Việt, nước ta đã có trung tâm Phật giáo Luy Lâu nổi tiếng ở vùng châu thổ sông Hồng. đó không chỉ là trung tâm tôn giáo mà còn là trung tâm chính trị, quân sự, thương mại của Lạc Việt. Phật giáo Luy Lâu đã tác động không nhỏ đến các nhà tư tưởng của Lạc Việt. Khi Phật giáo du nhập một cách hòa bình vào Việt Nam, tư tưởng từ bi, vị tha của đạo Phật rất nhanh được cư dân bản địa tiếp thu và biến thành tâm thức của người Việt cổ.

Dân tộc Lạc Việt khi đó đã có một nền văn minh nông nghiệp lúa nước tuy nhiên tổ chức nhà nước và tôn giáo còn dễ dàng. Trong khi đónước ta luôn bị kẻ thù phương Bắc đe dọa xâm lược và đô hộ. có khả năng Phật giáo lúc này góp một phần phát huy nhiệm vụ hệ tư tưởng của người Việt chống lại Hán hóa. (1).“Trong thời Bắc thuộc, Phật giáo tuy chưa trở thành Quốc giáo tuy nhiên đã đóng vai trò như tôn giáo dân tộc để tham gia bảo vệ văn hóa, chủ quyền dân tộc của người Việt”

một khi thoát được khỏi ách đô hộ của phương Bắc, từ thế kỷ X, nước ta đã bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ thì Phật giáo cũng luôn luôn phát triển. Thời Đinh – Tiền Lê, triều đình bắt đầu trọng dụng một vài nhà sư có chuyên môn uyên thâm trên mọi lĩnh vực. Các vua thời Đinh – Tiền Lê ban hành một vài chính sách bảo trợ và tăng trưởng bộ máy tăng đoàn Phật giáo trong cả nước như một tôn giáo chính thống, nhiều chùa lớn được xây ngay tại kinh thành. Các vua còn cử cả phái đoàn sang Trung Quốc thỉnh kinh Phật về in và quảng bá cho dân chúng. “Phật giáo thời kỳ này bắt đầu phát huy vai trò như một lực lượng tinh thần của dân tộc trong các đường lối kế hoạch xây dựng và ổn định đất nước sau một thời kỳ dài bị đô hộ” (2).

2. Phật giáo trở thành Quốc giáo ở thời Lý

Theo dòng lịch sử, từ một tôn giáo ngoại lai trở thành tôn giáo dân tộc, sang thời Lý, Phật giáo biến thành quốc giáo của nhà nước Đại Việt. Triều đại nhà Lý hiện hữu hơn 200 năm (1009-1225) với chín đời vua. trong lịch sử Việt Nam, triều Lý là một triều đại lớn và để lại nhiều thành công sâu sắc trên các lĩnh vực không giống nhau. Dấu ấn quan trọng nhất trên lĩnh vực chính trị chính là sự kiện lịch sử năm 1010, một khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã cho dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Thăng Long từ đó trở thành thủ đô văn hiến ngàn đời sau của dân tộc.

Đến năm 1054, triều Lý lại đặt quốc hiệu mới cho nước Đại Việt và buộc nhà Tống Phải thừa nhận đất nước ta là một quốc gia riêng. Trên lĩnh vực quân sự, triều Lý để lại dấu ấn trên trang sử hào hùng chống ngoại xâm của dân tộc (đánh Chiêm Thành phá tan âm mưu của nhà Tống trong việc lợi dụng Chiêm Thành để xâm lược nước ta và sau đó tổ chức thắng lợi cuộc kháng chiến chống Tống)ngoài những điều ấy ra, triều Lý cũng chăm lo tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy văn hóa nên đã có được nhiều thành tựu rực rỡ… Một dấu ấn cần thiết khác trên lĩnh vực tôn giáo thời Lý là sự hưng thịnh của đạo Phật.

Sự hưng thịnh của đạo Phật thời Lý biểu hiện rõ nhất ở tổ chức tăng đoàn. không những có số lượng phật tử đông đảo (hầu như trên cả nước từ vua, quan đến dân đều theo đạo Phật) mà tăng đoàn còn có nguồn ruộng đất và tài sản riêng rất lớn. Triều đình phong kiến nhà Lý tham gia chính quyền từ trung ương đến các địa phương.

Các vua Lý đã kế thừa tổ chức tăng quan thời Đinh – Tiền Lê. Đây là tổ chức có phẩm chất tôn giáo ảnh hưởng chặt chẽ với hệ thống nhà nước. Tăng quan triều Lý là những người tạo điều kiện cho nhà nước quản lý các tín đồ phật tử về mặt hành chính, đồng thời trên thực tế cũng là người bảo vệ quyền lợi của Phật giáo. một số tăng sĩ đắc đạo và có học thức uyên bác thời này được các vua Lý hết sức trọng dụng. Có sư là thầy dạy của vua và được phong làm Quốc sư.

Dưới thời Lý, một loạt nhà sư được ban hiệu Quốc sư như Vạn Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ. vai trò chủ yếu của các Quốc sư thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lý đạo Phật, ngoài những điều ấy ra khi cần, các Quốc sư còn cố vấn cho vua những vấn đề về chính trị, ngoại giao, quân sự, văn hóa…

Tượng Thiền sư Vạn Hạnh
3. Phật giáo giữ nhiệm vụ ổn định chính trị và tăng trưởng xã hộinước ta vừa mới thoát được khỏi thời kỳ đô hộ kéo dài tuy nhiên ngay sau khi độc lập, các vua Đinh – Tiền Lê đa phần là những kẻ vũ biền. Những cực hình như ôm cột đồng đốt nóng, thả vạc dầu đun sôi, nhốt cũi ngâm sông, giam vào chuồng hổ báo… Để trừng trị kẻ tội phản do các vua ban hành đã làm mất thiện chí của dân chúng và phản ảnh hiện trạng xã hội còn lạc hậu.

Thời kỳ này Phật giáo mới bắt đầu được chú trọng, các vua Đinh – Tiền Lê chưa thực sự Áp dụng việc trị nước phụ thuộc vào tư tưởng từ bi, hỷ xả của đức Phật. Sang thời Lý, nhận ra tư tưởng và giáo lý của đạo Phật có nhiều điểm ổn với việc trị quốc trong thời bình nên các vua nhà Lý xem trọng tăng đoàn – một phần vì mến đạo tuy nhiên cũng một phần vì nguyên nhân chính trị. Nhờ vào học thức và tài lực của chư tăng, phật tử thời Lý mà Đại Việt ổn định về chính trị và phát triển hơn các thời trước về văn hóa xã hội.

Nguyễn Đổng Chi trong sách “Việt Nam cổ văn học sử” có trích dịch một đoạn lời của Quốc sư Viên Thông (1080-1151) – (Đời thứ 18, dòng Tỳ ni đa lưu chi) giãi bày với vua Lý Thần Tông về phép trị nước như sau: “Thiên hạ cũng như một đồ vật, để nó vào nơi yên thì yên vào nơi nguy thì nguy, cốt trông ở chỗ sở hành của nhà vua; nếu có cái đức hiếu sinh thấm vào lòng dân thì dân yêu như cha mẹ… Trị và loạn ở tại trăm quan, được người thì trị mà không được người thì loạn… Bậc vua chúa không làm hưng hay vong liền mà dần dần ở sự thiện hay ác. Bậc thánh vương xưa biết như thế nên mới bắt chước để yên người… Yên dân là kính kẻ dưới, hãi hùng như cưỡi ngựa nắm dây cương mục. Theo lối đó thì hưng, trái lại thì vong. Sự hưng vong là dần dần sinh ra thôi” (4).

Với những lời giãi bày trên, quả thật các Quốc sư thời Lý xứng đáng là những nhà cố vấn vững vàng về chính trị. đó là một bài học chính trị thấm nhuần tinh thần Phật giáo.

đấy còn là sự tỉnh táo xuất sắc của sư Vạn Hạnh khi ngài khuyên vua Lê Đại Hành chỉ việc án binh bất động trong hai mốt ngày là giặc lui, hoặc sự kiện ngài khuyên vua dời đô về Thăng Long, vùng đất địa linh nhân kiệt để giữ cho địa thế Việt Nam vững bền dài lâu. Thực tế đã xảy đúng như lời dạy của Quốc sư. điều này đủ biết vai trò quan trọng của hệ thống tăng quan thời Lý với việc ổn định bộ máy chính trị của nhà nước Đại Việt. không những giữ nhiệm vụ ổn định bộ máy chính trị, Phật giáo thời Lý còn tác động không nhỏ đến hiện trạng phát triển kinh tế xã hội.

4. Tư tưởng Phật giáo và khối đoàn kết toàn dân chống ngoại bang

Ngay từ khi Phật giáo du nhập vào đất nước ta khoảng đầu Công nguyên đã đem theo tư tưởng bình đẳng và từ bi rất thích hợp với khối đại đoàn kết toàn dân và mở rộng tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau của dân Việt. Tinh thần vô ngã, vị tha Phật đà ấy ở thời Lý đã thấm sâu vào tiềm thức của cư dân Đại Việt và tạo nên mối đoàn kết dân tộc sâu sắc giữa vua quan với người dân bình thường, giữa tướng lĩnh với binh lính.

Sách Đại Việt sử ký toàn thư có dẫn: “Năm 1038, vua Lý Thái Tông ngự ra bố hải khẩu (Thái Bình) cày ruộng tịch điền. Vua sai hữu ti quét đất lập đàn, thân tế thần nông, sau đó cầm cày toan làm lễ cày ruộng. Tả hữu can rằng, đấy là việc của bọn nông phu, bệ hạ thực hiện công việc ấy làm gì? Vua nói: trẫm không tự cày thì thu thập xôi đâu mà tế, lại lấy gì nêu gương cho thiên hạ. Vua đẩy cày ba lần rồi ngừng. Nhà vua tự thân cày tịch điền đầu năm, là để làm kiểu mẫu cho dân của nhà Lý” (7). đấy chính là một minh chứng biểu hiện tinh thần dân chủ và đoàn kết giữa vua tôi Đại Việt.

Giáo lý về “tất cả chúng sinh đều có Phật tính” đều đã có sẵn mầm giác ngộ để tương lai thành Phật là một chủ thuyết thực sự công bằng, hạn chế phân biệt ranh giới đẳng cấp phong kiến thời Lý. đối với các ông vua kiêm Thiền sư như Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông thì chủ quyết công bằng đấy không hẳn là khẩu hiệu mà thể hiện bằng đường lối chính sách cai trị và cả trong cung cách cư xử hằng ngày của các vua.

5. Phật giáo liên quan đến nền giáo dục và văn hóa thời Lý

Một dấu hiệu phổ biến của hệ thống giáo dục đất nước tađặc biệt là thời Lý, chùa chiền chẳng hạn như một trường đại học. Mỗi ngôi chùa thời ấy là một diễn đàn, một chốn học đường với tầng lớp người theo học không chỉ có thường dân mà cả phòng ban quý tộc. Sự học hỏi giữa mọi người xảy ra công bằng không phân biệt sang hèn. Ở thời Lý, các bậc danh thần như Thái úy Tô Hiến Thành và Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa từng thụ giáo học với Thiền sư núi Cao Dã ròng rã trong mười năm mới được biết mặt thầy.

Nhiều ngôi chùa trở thành các thiền viện nổi tiếng, không những phổ biến kinh sách đạo Phật mà còn là diễn đàn của các nhà thơ và tầng lớp trí thức Nho giáo bấy giờ. Tiêu biểu nhất có lẽ là ngôi chùa Quỳnh Lâm.

Chùa Quỳnh Lâm là một trung tâm Phật giáo có vị trí quan trọng vào hàng nhất nhì ở thời Lý và cả thời Trần sau này. Tương truyền người có công khởi dựng chùa Quỳnh Lâm đầu tiên chính là vị Quốc sư nổi tiếng thời Lý – Không Lộ Thiền sư. Chùa Quỳnh Lâm được xem như một hiện tượng văn hóa tiêu biểu mang dấu hiệu riêng của văn hóa Phật giáo thời Lý. Trong giai đoạn lịch sử này, văn hóa Đại Việt có sự giao lưu và hội nhập giữa ba thành tố Phật, Đạo và Nho.

Đây vốn là ba hệ tư tưởng không cùng nguồn gốc tuy nhiên đều du nhập vào đời sống tinh thần của người Việt từ rất sớm và mặc nhiên biến thành các hệ thành quả văn hóa dân tộc, nhất là Đạo giáo và Phật giáo, mặc dù đến trước thế kỷ X, chính quyền Trung Quốc vẫn ngấm ngầm hoặc công khai lấy Nho giáo làm chỗ dựa. Đến thời Lý, dù Phật giáo trở thành Quốc giáo nhưng với bản chất giáo lý và cách thức truyền bá giáo lý, Phật giáo chủ trương hòa đồng với các tôn giáo khác trong xã hội. vì vậy có thể nói giữa Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo có những mối quan hệ cộng hưởng trong phạm vi nhà chùa thời Lý.

đặc điểm hội nhập ba thành tố Phật, Nho và Đạo trong sinh hoạt cộng đồng của người Việt thời Lý là hệ quả của sự cởi mở về quan điểm chính trị của các ông vua thiền sư thời này. Với tư tưởng bình đẳng và tầm nhìn chiến lược, các vua chủ trương tạo ra một nền văn hóa có sự dung hòa, cân bằng vị thế giữa ba tôn giáo lớn trong xã hội bấy giờ là Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. điều này thể hiện ở các chính sách của triều đình như: vừa cho dựng chùa, lập các đạo cung, đạo quán, xây đền miếu; vừa đặt giai phẩm cho tăng đạo, sắc phong cho các vị Nho thần; cho dựng văn miếu và Quốc Tử Giám mở khoa thi Nho học tuy nhiên cùng lúc đó mở cả khoa thi Tam giáo dành cho quan lại chuyên trách việc tôn giáo, tế lễ hoặc những người đứng đầu các đền miếu, chùa chiền.

Về các ngành mỹ thuật như kiến trúc, hội họa, điêu khắc Phật giáo, thời Lý đã đóng góp nhiều công trình kiến trúc và tác phẩm điêu khắc có thành quả nghệ thuật cao. Tiêu biểu nhất cho nền mỹ thuật Phật giáo thời này là bốn công trình còn được gọi là An Nam tứ đại khí: tháp Báo Thiên, tượng Phật Di Lặc ở chùa Quỳnh Lâm, đỉnh Phổ Minh, chuông Quy Điền. ngoài ra còn có rất nhiều công trình nổi tiếng khác như chùa Diên Hựu, tháp Sùng Thiện Diên Linh, tháp Chương Sơn…

Tổng kết

Trên đây là tất tần tật thông tin về vì sao dưới thời Lý, nhiều chùa được xây dựng. Hi vọng qua bài viết này của Bangxephang bạn sẽ có thêm nhiều kiến thức nhé.

Hãy Đánh Giá post